Dec 31, 2009

Chết trẻ

oldcouple by you.

      Tối nay, tối Giao Thừa của một năm Dương Lịch kết thúc, đã dự định đi vi vu đâu đó mừng Giao thừa và đón năm mới với vài người bạn, lại phải thay đổi kế hoạch vì một bất ngờ không chờ đợi – đi viếng đám tang bạn cũ.

      Trên đường đến điểm hẹn với các bạn để cùng nhau đến nhà B – anh bạn xấu số rời bỏ dương thế vào những ngày cuối cùng của năm, trong đầu tôi cứ lẩn quẩn những hình ảnh ngày xưa của người bạn ấy. Gương mặt góc cạnh ương nghạnh luôn vênh vênh ngang tàng mỗi khi bị thầy bắt phạt vì tội trốn tiết hay không làm bài tập, cái dáng cao cao hơi gù và mái tóc dài chùm xuống tận cổ vốn là cái gai trong mắt thầy giám thị trường – đó là tất cả những gì còn sót lại về ngoại hình của người bạn ấy. Lâu lắm rồi không gặp từ sau ngày cậu ta kết hôn, nghe nói giờ đã thay đổi nhiều, cả về ngoại hình lẫn tâm tính.

      Người ta, suy cho cùng thì chỉ ngang tàng khi còn có thể ngang tàng được, thoải mái để cho cái tuổi xuân của mình tự tung tự tác trong cái gọi là độc thân không vướng bận. Một khi đã có gia đình rồi, thì muốn ngang tàng cũng không thể ngang tàng được. Cái ngang tàng không thể đem ra chợ bán lấy tiền để đổi rau đổi gạo. Có gia đình, bắt buộc phải thay đổi, có khi vì tình yêu, có khi vì trách nhiệm.

      Người ta, đến trong thế gian thế nào thì ra đi cũng thế ấy: tay trắng. Cậu bạn tôi ra đi mà cũng không quên gửi lại cho thế gian một cô bé con chỉ vừa tròn 3 tuổi – cái tuổi chưa đủ hiểu thế nào là 2 chữ “mồ côi”. Trong đám viếng hôm nay, có vài người già thì thầm nhận xét: “Chết trẻ quá, vợ lại trẻ đẹp thế kia, được 1-2 năm là theo thằng khác ngay thôi. Chung thủy gì ngữ ấy? Đâu như cái thời chúng ta ngày xưa, cứ gọi là son sắt tiết hạnh đến chết….”.  Cái bản án vô hình đề ba chữ “thiếu tiết hạnh” như đang treo lơ lửng trên đầu cô vợ trẻ. Ai buồn nhất ?! Có lẽ là người chết, bởi nếu có nghe được những lời nhận xét kia, anh cũng không trách họ, trách vợ, mà chỉ trách mình: “giá như ta đi làm về rồi về nhà luôn, đừng đi nhậu nhẹt với mấy thằng đó, giá như …”

      Hôm nay, 31/12 Tòa Án ND TP Hà Nội xét xử vụ án cô nữ sinh viên trường Sư Phạm - Vũ Thị Kim Anh - giết người tình cũ trong chiếc xe Lexus. Tòa tuyên án 14 năm - Có người thương hại xót xa cho cô, ngược lại cũng có người giận Tòa Án đã tuyên án quá nhẹ. Sau gần 1 năm trời điều tra tìm hiểu, rốt cuộc thì vụ án cũng đi vào hồi kết bằng một bản án của pháp luật và rồi chắc chắn cũng sẽ rơi vào sự quên lãng của người đời. Nhưng liệu cô gái bị cáo có thể quên tất cả? 1/ 3 cuộc đời trong trại giam là quãng thời gian để cô cố gắng làm lại, hay rồi sẽ luôn miệng thở than: “giá như ta đừng sống buông thả thì nay cũng đã là một cô giáo đứng trên bục giảng ... ?”

      Đó là sự trả giá của cô từ những cám dỗ cũng như những kỹ năng cần thiết để ứng xử với các quan hệ trước ngưỡng cửa cuộc đời. Ai cũng có thể tự lựa chọn tình yêu cho mình, nhưng không được vượt qua những giới hạn của pháp luật, của luân thường đạo lý bởi nếu điều đó xảy ra, chính ta chứ không phải ai khác, sẽ phải chấp nhận những bi kịch đến với mình và lúc đó, chắc chắn không còn cơ hội để sửa chữa mọi lỗi lầm.

     Đời người giống như mảnh vải trắng thẳng thớm mà khi ta sinh ra trên cõi đời ta đã mang theo. Giữ cho nó sạch trắng được bao nhiêu phần trăm so với lúc ban đầu cho đến chung cuộc cuộc đời là một quá trình dài dằng dặc cả đời người. Mỗi vệt bẩn vây lên đều không thể hoàn toàn tẩy sạch được. Khó biết chừng nào !!

    Trong Đạo Thiên Chúa, mỗi con người từ khi sinh ra đến khi mất đi, sẽ có 3 lần vinh hạnh được người thân họ hàng đông đúc đưa đến Nhà Thờ với Chúa: lần đầu là khi vừa sinh ra, lần thứ hai là khi kết hôn và  lần thứ ba là khi người đó nhắm mắt lìa đời. Khi ta còn bé được đưa đến Nhà Thờ là khi ta chỉ biết khóc và người thân quanh ta thì cười sung sướng. Khi ta đến Nhà Thờ với người bạn đời tay trong tay thì ta và họ hàng cười toe toét còn cha mẹ ta thì khóc, khóc vì thấy con hạnh phúc. Và khi ta đến Nhà Thờ lần cuối để chào Chúa, ta sẽ không cười cũng không khóc được nữa…, trong bạn bè người thân đã có người còn người mất so với hai lần trước. Sống tốt thì khi ta nhắm mắt, có lẽ ta sẽ mỉm cười và sẽ nhiều lắm những giọt nước mắt tiếc thương, còn ngược lại thì chỉ toàn những cái mỉm cười mỉa mai hay những giọt nước mắt giả nhân giả nghĩa ...

     Chỉ mong sao tôi có thể sống như một người bình thường, hạnh phúc. Hạnh phúc dễ tìm nhưng khó giữ mà. Phải choàng hết hai vòng tay ấm nồng mà siết chặt lấy mới giữ được. Chắc chắn không có tay để cố gắng ôm trọn lấy hạnh phúc này mà vẫn choài tay với bắt hạnh phúc khác, vì như thế thì ngay cái đang có cũng sẽ vuột mất.

Dec 23, 2009

Santa Claus

Ong-gia-2 by you.
Đêm mai là Đêm Giáng Sinh rồi. Ông già Noel có đến tặng quà cho tôi không nhỉ?!
Mới cách đây 6 – 7 năm thôi, tôi còn tin là ông già mặc bộ đồ đỏ viền trắng, thắt thắt lưng đen, chòm râu bạc trắng, giọng cười hô hô và đi đâu cũng phát tiếng kêu leng keng mà người ta gọi là Santa Claus ấy là có thật. Chỉ khác với những tấm bưu thiếp và phim hoạt hình là: ông già Noel mà tôi tin là có thật thì đi bằng xe cưỡi tuần lộc hoặc bằng ngựa kéo, và đi dưới mặt đất chứ không có bay trên trời; ông ấy cũng có gia đình, và các con trai cháu trai ông ấy lại tiếp tục sự nghiệp của Cha là tặng quà cho trẻ nhỏ vào dịp Giáng Sinh, bất kể đứa trẻ nào họ gặp.
Thật trẻ con. Đôi khi tôi buồn cười cho chính mình với những niềm tin ngây thơ đến mức trẻ con, như việc có thời tôi đã tin chắc là trên đời này có Đô-rê-mon và tôi hi vọng sẽ được gặp chú mèo đáng yêu ấy, rồi tin có Ông Già Noel, tin các con vật cũng biết nói chuyện với nhau, cũng tình cảm yêu thương hay giận hờn thù ghét - hệt như con người, tin có những điều ước sẽ thành sự thật khi trông thấy sao băng hay cầu vồng … Nói chung là tôi tin tất tần tật những gì tôi cho là tốt đẹp mà người ta nói với tôi rằng nó là có thật. Dẫu sao thì, những niềm tin đó, nếu có là bị lừa gạt, thì tôi cũng chẳng mất mát gì, vì nhờ nó mà tôi có một trời tuổi thơ hồn nhiên tươi đẹp và nhiều mơ mộng – điều mà trẻ con bây giờ ít có được.
Bây giờ đọc sách báo, thấy người ta bảo rằng Ông già Noel là hóa thân của Thánh Nicolas ở thành Myra, Thổ Nhĩ Kỳ.  Hình ảnh một vị thánh và hình ảnh một ông già hiền hậu với một túi quà to trong đêm Noel – 2 hình ảnh tương đồng quá chứ.

CUỘC ĐỜI ÔNG GIÀ NÔ-EN
Nguyên tác BRYAN GRIFFIN

----o0o----

Chương Một
CƠN BÃO

Ngày xửa ngày xưa, trong một ngôi làng nhỏ trên bờ biển Baltic, có đôi vợ chồng người đánh cá sống trong một căn nhà bằng đá với hai đứa con, cậu con trai năm tuổi là Ni-cô-la, còn đứa em gái của nó là bé Kây-ti.

Một buổi chiều nọ, khi Ni-cô-la ngồi bên cửa sổ và đẽo một mẩu gỗ trôi dạt, cậu nhìn thấy sự thịnh nộ của cơn bão trên những tầng mây. Cậu có thể nghe được tiếng ầm ào của những con sóng đập vào bờ biển ở ngòai xa, ý nghĩ của cậu hướng về người cha đang phải chống chọi với cơn bão trên con thuyền đánh cá mỏng manh. Vài phút sau Ni-cô-la không còn có thể nghe thấy tiếng sóng đập xô nữa vì những tiếng đập rào rào của trận mưa đá dội lên tấm kính cửa sổ. Trời tối sầm lại khi Ni-cô-la hỏi mẹ bằng một giọng lo âu, "Mẹ, mẹ có nghĩ là bố sẽ được an tòan ở ngòai kia không?" Cậu bé không nhận được câu trả lời. Mẹ cậu quá bận bịu trong việc chăm sóc em bé Kây-ti đang lên cơn sốt nằm trong chiếc cũi. Cuối cùng bà đứng dậy với ánh mắt lo âu và bộc lộ tất cả nỗi niềm cho Ni-cô-la.

"Em gái của con đang bị sốt, mẹ không thể chờ bố con được nữa. Ni-cô-la, mẹ muốn con ở ngay bên cạnh em và đắp lên trán em những tấm vải ướt này để em hạ sốt. Mẹ sẽ trở về ngay khi nào có thể" Bà vừa nói vừa vỗ nhẹ lên cái đầu vốn hay đãng trí của Ni-cô-la. Sau khi khóac lên người chiếc áo chòang bà vội vã bước ra ngòai trời đêm đen tối, một cơn gió mạnh thổi những bông tuyết xuyên qua cửa vào trong nhà ngay khi bà vừa bước ra Ni-cô-la trông chừng Kây-ti hàng giờ một cách kiên nhẫn, cho đến khi con bé đẩy hết đống chăn đắp sang một bên và khuôn mặt cô bé trở nên trắng bệch và cậu bé sờ vào cái trán bé nhỏ thấy mát dần. Khi đống tro trong lò lửa chuyển từ màu đen sang màu xám thì đầu của Ni-cô-la đã gục xuống và cậu bé đã ngủ ngay trên sàn nhà bên cạnh chiêc cũi.
Đó là tư thế mà sáng hôm sau những người dân làng nhìn thấy cậu bé khi họ đến báo tin buồn là cha cậu đã bị cuốn mất hút vào trong cơn bão. Mọi điều còn chưa hết tồi tệ, họ cũng đã kể cho cậu bé biết rằng bà mẹ đáng thương của cậu đã bị chết vì một chiếc cây ngã đè lên người trên đường tới nhà bác sĩ. Giờ đây cái gia đình đã một thời hạnh phúc với bốn người giờ chỉ còn một mình Ni-cô-la. Cậu đã trở thành đứa trẻ mồ côi.

Chương hai
Những món quà giáng sinh đầu tiên

Giờ đây ai sẽ là người chăm sóc bé Ni-cô-la khi cậu chỉ còn lại một mình trơ trọi trên thế giới này? Những người đánh cá và những bà vợ của họ đã tụ họp để bàn về số phận của cậu bé. "Dĩ nhiên chúng ta sẽ chăm sóc cậu bé" một người nói "nhưng thật không dễ dàng gì khi đã phải nuôi năm đứa rồi mà cậu bé thì đang tuổi lớn"


"Bây giờ thì đang giữa mùa đông những ngày tốt để ra khơi thì khi có khi không" một người khác nói "may mắn thì chúng ta mới đủ ăn cho đến mùa xuân"


Lúc đó bà Bavran hiền lành phúc hậu nói: "Chúng tôi đã dự trữ thức ăn cho mùa đông này rồi, và chúng tôi cũng có một cái giừơng cũ, vì vậy chúng tôi có thể nhận cậu bé tội nghệp đó. Nhưng xin các bác nhớ kỹ cho là cuộc sống của một người đánh cá không bao giờ dễ dàng cả" bà nói thêm "nào ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra trong những năm sắp tới? Tôi nghĩ chúng ta phải chia sẻ với nhau vì Ni-cô-la. Ơ dây chúng ta có mười người, vì vậy mỗi chúng ta sẽ phải nhận nuôi cậu bé một năm, nhờ đó cậu bé sẽ được chăm sóc đến năm mười lăm tuổi, và hiển nhiên là cậu bé biết ra khơi trước khi cậu được mười lăm tuổi.


Mọi người đều đồng ý, vì vậy Ni-cô-la đến sống với gia đình Bravan vào ngày trước Lễ Giáng Sinh một ngày. Sự náo nức của lũ trẻ chỉ làm cho Ni-cô-la cảm thấy khổ sở, và thế là cậu thu người trong một góc phòng, khóc nấc lên vì nỗi đau khổ vì mất mẹ, cha và em Kây-ti yêu quí, Ni-cô-la cố tránh nghe những âm thanh vui nhộn trong nhà. Thế nhưng cánh cửa đã chầm chậm mở ra, một bóng dáng nhỏ bé xuất hiện…

"Mày muốn gì" Nicholas hỏi với giọng gần như thô bạo. "Cút ngay, tao muốn một ở mình"
Đứng ngay giữa cửa, miệng cậu bé run run: "thuyền của em bị gãy rồi". Rồi cậu bé bật khóc: "Đây là cái mới nhất cho lễ Giáng sinh đó, thế màbây giờ cha thì ra khơi rồi, mẹ thì không thể lắp lại được. Em biết làm sao bây giờ?" Cậu bé hỏi và trong bàn tay cầm chiếc thuyền đồ chơi bị gãy. Ni-cô-la đưa tay áo lên chùi nước mắt và cầm lấy mẩu đồ chơi bị vỡ. "Anh sẽ gắn nó lại cho em", cậu nói và quay trở lại trong cái góc đơn độc của mình.
"Anh ra nơi có ánh sáng đây này" cậu bé Bavran nói.
Thế là Ni-cô-la bước vào nơi sáng sủa hơn, có nhiều đứa trẻ và nhiều tiếng cười hơn. Thóang chốc cậu quên mất nỗi buồn của mình.
Nhiều tháng trôi qua, Ni-cô-la dần dần yêu mến những đứa trẻ nhà Bavran, Ốt-tô, Matgaret và Gretchen. Cậu thích chơi với chúng, nhưng cậu biết điều này sẽ không kéo dài được bao lâu. Khi ngày lễ Giáng sinh kế tiếp đang đến gần và gia đình Bavran bàn về việc Ni-cô-la sẽ rời họ, cậu bối rối và hỏang sợ, tuy nhiên những ý tưởng chính trong đầu cậu vẫn là làm thế nào cậu có thể đền đáp lại lòng tử tế của họ. Ni-cô-la ước ao cậu có thể cho tất cả mọi người một món quà, nhưng tất cả mọi thứ của cải cậu có được trên đời này chỉ là những chiếc áo cậu mặc, một chiếc áo chòang đặc biệt và những chiếc quần dài, một chiếc tủ cũ và một con dao bỏ túi trước kia là của bố cậu. Cậu không thể nào rời bỏ những thứ này. Bỗng dưng một ý tưởng kỳ diệu lóe lên trong đầu cậu. Cậu sẽ đẽo những đồ chơi cho lũ trẻ như trước kia cậu vẫn làm cho bé Kây-ti em gái nhỏ của cậu.
Vì vậy, hai tuần cuối cùng ở với gia đình Bavran, Ni-cô-la làm việc một cách bí mật trong nhà kho tối tăm, giấu ngay mẩu gỗ và con dao khi nghe có ai đến gần. Cậu làm việc cật lực suốt những ngày cuối cùng vì vậy tất cả những quà tặng đã hòan thành vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh. Hơn nữa, đó cũng là ngày mà mùa đông trước gia đình Bavran đã đem cậu về và giờ đây thời hạn đã hết, cậu sẽ phải chuyền sang gia đình khác.
Những đứa trẻ lặng lẽ khóc khi Ni-cô-la gói những thứ đồ đạc nghèo nàn của cậu trong khi ông Bavran đang chờ đưa cậu sang nhà gia đình Hans một người làm lưới. Đứa trẻ mồ côi đã lấy ra từ trong chiếc túi của mình ra những món quà thô sơ cậu đã làm và khi nhìn thấy lũ trẻ vui sướng với những món quà tặng, cậu hạnh phúc đến nỗi không còn muốn khóc nữa. Một cảm giác ấm áp lan tỏa trong trái tim cậu bé khi cậu nhìn thấy những khuôn mặt hạnh phúc của họ và nghe thấy tiếng reo vui cám ơn của họ.
"Giáng Sinh năm sau anh sẽ làm cho các em những món đồ chơi đẹp hơn" Ni-cô-la nói với giọng quả quyết. "Các em hãy chờ xem nhé"

Với lời hứa hẹn đó, Ni-cô-la giờ đây đã 6 tuổi, dũng cảm từ biệt họ, dáng dấp bé nhỏ quay đi từ biệt khung cảnh hạnh phúc và chuẩn bị đối diện với hòan cảnh chưa biết ra sao của năm sắp tới với gia đình mới. Khuôn mặt của cậu bé buồn xo, tuy nhiên đôi mắt màu xanh trong sáng vẫn ấm áp với những ý nghĩ hạnh phúc mà cậu vừa để lại sau lưng.
"Tốt thôi" cậu nghĩ về mình khi họ đến gần ngôi nhà của người đan lưới: "Có thể năm đứa trẻ ở đây cũng sẽ tử tế với mình như gia đình Bavran và mình có thề làm những đồ chơi cho chúng. Giáng Sinh có lẽ là lúc hạnh phúc của mình ngay cả khi đó là ngày mình phải dời đi.
Chương ba
Cuộc đua xe trượt tuyết

Tại ngôi nhà của người làm lưới, hầu hết những buổi chiều mùa đông bọn trẻ học cách quấn và gỡ rối đống dây, vá những chiếc lưới đơn giản. Ni-cô-la khám phá ra một cách tách những sợi tơ của cây gai dầu màu vàng cậu có thể làm được mái tóc giống như thật cho những con búp bê bằng gỗ mà cậu thường đẽo gọt khi rảnh rỗi. Khi cậu từ giã họ vào cuối năm, năm đứa trẻ nhà làm lưới đã tìm thấy năm món đồ chơi nhỏ đang nằm chờ chúng trên chiếc lò sưởi. Ni-cô-la cũng không quên lời hứa của cậu với ba đứa trẻ nhà Bavran, nên cậu làm một chuyến đi đặc biệt đến ngôi nhà của họ vào buổi sáng Giáng Sinh hôm ấy với những quà tặng

Khi nhiều năm trôi qua, kỹ năng của Ni-cô-la ngày càng tăng lên, với con dao của người cha. Và tất cả những đứa trẻ đều trông đợi một món quà của Ni-cô-la vào ngày Giáng sinh. Không một đứa trẻ nào bị thất vọng, bởi vì nhà điêu khắc bé nhỏ ấy luôn luôn biết rõ điều mà mỗi đứa trẻ ao ước.
Chỉ còn một tuần nữa là Giáng Sinh. Ni-cô-la_ giờ đây đã mười bốn tuổi_đến sân trường nhìn thấy tất cả những bạn bè trong nhóm đang trò chuyện thật sôi nổi.
"Có chuyện gì thế?"
"Sắp có một cuộc đua xe trượt tuyết vào sáng ngày Giáng Sinh" Ốt-tô nói. "Xuất phát từ cổng nhà vị điền chủ trên đỉnh đồi và đích là cây thông lớn ở phía bên kia nhà ông ấy"
"Còn giải thưởng" Han ngắt lời, "là một chiếc xe trượt mới với phụ tùng bằng kim lọai"
"Ni-cô-la, cậu sẽ tham gia chứ? Xe trượt của cậu cũng không tồi mà, cho dù cậu..."
"Sụyt, Jan", một giọng khác thì thầm.
"Thật không hay khi nhắc Ni-cô-la nhớ lại rằng cậu ấy đã phải tự làm chiếc xe trượt tuyết trong khi cha chúng mình làm cho mình"
Nhưng Ni-cô-la không lắng nghe cuộc nói chuyện. Cậu suy nghĩ một cách chóng vánh. Cuối cùng cậu quay sang mọi người và hỏi :"Khi nào cuộc đua bắt đầu?"
"Đúng 9 giờ vào sáng ngày Giáng sinh"
Ni-cô-la lắc đầu một cách lưỡng lự. "Tớ không biết tớ có thể đua được không" Cậu nói chầm chậm. Cậu đang nghĩ đến cái tủ đầy ắp đồ chơi mà cậu sắp sửa phân phát cho tất cả các trẻ em vào sáng ngày Giáng sinh, đặc biệt là một cái cho Elsa, con gái người đốn củi, cô bé sống ở bên ngoài khu làng
"Có lẽ nếu mình thức dậy thật sớm và thật vội vã" Ni-cô-la nói với chính mình, lúc đó cậu chợt nhận ra đường đua sẽ đi ngang qua ngay ngôi nhà của Elsa. Con búp bê sẽ được thả rơi trong vài giây, cho phép cậu bé tiếp tục đua mà không mất chút thời gian nào.
"Tôi sẽ có mặt ở đó Tôi sẽ có mặt ở đó! Đúng 9 giờ và tốt hơn là các bạn hãy đề phòng mất cái giải thưởng đấy!" Cậu la lên một cách khoái trá. Buổi sáng ngày Giáng sinh bầu trời sáng và đầy nắng, đầy ắp những bông tuyết tươi đẹp. Ni-cô-la đã thức dậy trước khi mặt trời mọc, và như thường lệ cậu đặt những đồ chơi trước cửa của mọi căn nhà. Khi bọn trẻ bắt đầu lên đường với những chiếc xe trượt của chúng chuẩn bị cho cuộc đua, toàn bộ dân làng theo sau để xem cuộc đua một cách đầy hào hứng. Nhưng không có một dấu hiệu nào của Ni-cô-la.
Thật không may, một trong những bánh lăn bằng gỗ của chiếc xe trượt đã bị gãy dưới sức căng của bao đồ chơi nặng. Khi cậu bé tuyệt vọng đang cố buộc lại bằng sợi dây, cậu nghe thấy âm thanh của chiếc kèn vang lên từ trên đỉnh ngọn đồi ngay nhà vị điền chủ. Cuộc đua đã bắt đầu. Ni-cô-la vô cùng tuyệt vọng bởi vì cậu biết mình đã lỡ một cơ hội giành được chiếc xe trượt tuyết mới, nhưng dù sao cậu cũng phải đi ngang qua ngôi nhà của người đốn củi đề phát quà cho Elsa, cậu quay lại dựng chiếc xe trượt méo mó lên và lao về phía đỉnh đồi. Khi cậu chạm đến điềm xuất phát, Ni-cô-la nhìn thấy bạn cậu đang tăng tốc ở ngoài xa, trông giống như một đốm đen nhỏ.
"Đi nào Ni-cô-la" dân làng gọi, "chúng ta sẽ đẩy cho cháu khởi động. Một, hai, ba. Nào đi"
Ni-cô-la bay xuống ngọc đồi, mặt cậu buốt vì gió, cậu trượt mỗi lúc một nhanh, bánh lăn bằng gỗ hầu như không chạm vào nền tuyết cứng. Cái đốm đen đã to dần và Ni-cô-la biết cậu sẽ bắt kịp những đứa trẻ khác. Lũ trẻ hiện ra càng lúc càng lúc càng to dần đến khi Ni-cô-la gần như ngã ra khỏi chiếc xe chúng thật sự kinh ngạc. Chúng đã dừng lại và đợi cậu ngay trước nhà của người đốn củi.

"Nhanh lên Ni-cô-la" Jô bé nhỏ động viên "Chúng tớ đã chờ cậu trên đỉnh đồi, nhưng ông điền chủ nóng ruột nên thổi còi bắt chúng tớ xuất phát. Cậu biết là chúng tớ sẽ chờ cậu nếu có thể"
"Đúng thế , Ốt-tô hét lên "bây giờ đi đến thả con búp bê đó trước cửa nhà Elsa, nào đi! Từ bây giờ chúng tớ sẽ đợi cậu! Trước hết phải cố vì một chiếc xe trượt mới "
Với một tiếng hò ồn ả, hai mươi đứa trẻ la lên và cuộc đua lại tiếp tục trên thung lũng đóng băng xuyên qua những quãng đường đất họ phải xách chiếc xe trượt lên, ngoằn ngòeo dưới những hàng cây và một đọan dài khó khăn gắng sức trèo lên đồi phía sau nhà vị điền chủ. Ni-cô-la chỉ còn thấy một đứa trẻ phía trước mình khi cây thông lớn xuất hiện trong tầm mắt.
Giờ đây cậu đang băn khoăn xem thử cần bao nhiêu tiền cho chiếc xe trượt mới để đi phân phát những món quà Giáng sinh. Ni-cô-la trượt nhanh đến nỗi mà cậu nghĩ rằng trong giây lát cậu sẽ xuyên qua cây thông tách nó ra làm đôi, nhưng ngay lúc ấy cậu lái chiếc xe sang một bên và nhảy ra. Khi cậu tháo chiếc mũ len ra, cậu nghe những tiếng reo hò của dân làng. Cậu đã thắng cuộc đua. Điều ấy giống như một giấc mơ đã trở thành sự thật.
Tất cả những đứa trẻ tháp tùng Ni-cô-la về nhà trên chiếc xe trượt tuyết mới. Mỗi bà mẹ, mỗi người cha tay họ đi qua đều vẫy tay, mỉm cười đầy tự hào sung sướng như thể con của họ đọat giải.
Chương bốn
Buổi tối trước đêm Giáng Sinh

Sau khi dân làng giải tán về nhà, Ni-cô-la dừng lại ngay trước cửa ngôi nhà nơi cậu đã sống năm trước. Cậu thấy bên cạnh mình người đàn ông gầy gò ảm đạm, như thể chẳng bao giờ có được nụ cười trong đời ông ta. Đó là Bertram Marsden, người khắc gỗ trong làng, người mà tất cả những đứa trẻ đều gọi là "ông khùng Marsden" bởi vì ông sống một mình, hiếm khi trò chuyện với ai, lại hay rượt đuổi những đứa trẻ ra khỏi cửa với cái nhìn đe dọa và những lời nói cục cằn.

"Chắc mày đã quên mất là hôm nay mày dời đến nhà tao?" Marsden hỏi một cách thô lỗ.
Ni-cô-la ngước lên. Ơ không, cậu không quên, và cậu biết rất rõ vì sao Marsden đề nghị nhận cậu. Lý do duy nhất ông quyết tâm, thậm chí nôn nóng, nuôi nấng bảo bọc Ni-cô-la bởi vì hầu hết năm năm nay ông đã theo dõi công việc mà cậu đã làm với con dao cũ, ông nhận ra rằng Ni-cô-la sẽ là người tập sự giỏi và ít tốn kém cho ông.

Một lần nữa, Ni-cô-la gói ghém những đồ đạc ít ỏi lên trên chiếc xe trượt mới, nói lời tạm biệt với gia đình cậu sắp từ giã, và theo về ngôi nhà tiều tụy của ông khùng Marsden ở ngoài rìa làng.
Khi bước vào ngôi nhà, Ni-cô-la bước ngay vào trong gian làm việc chính của người thợ khắc gỗ. Ở đây cậu nhìn thấy chiếc ghế dài, bàn làm việc, những dụng cụ của ông và một số gỗ đã được phân lọai
Marsden chỉ cái cửa trong góc và nói: "Mày có thể cất những đồ đạc trong đó".

Ni-cô-la vẫn đứng yên giữa căn phòng hỗn độn, nhìn quanh mất hết tinh thần.
"Có một cái giường để mày ngủ. Tốt hơn là mày cất chiếc xe trượt xinh đẹp kia đi cho. Chúng ta không có thì giờ mà nô đùa trên tuyết. Thôi nào Ni-cô-la, đừng có đứng trố mắt ra như thế. Cất mọi thứ của mày đi, ở đây mày còn phải học nhiều. Tao sẽ làm cho mày trở thành một người thợ mộc giỏi. Không còn thì giờ cho những con búp bê ngốc nghếch và những đồ chơi bằng gỗ nữa đâu. Mày sẽ phải kiếm sống nuôi thân. Ồ nhân tiện mày cũng nói cái lũ trẻ vẫn lẽo đẽo theo mày tránh xa nơi này ra, mày có hiều tao nói gì không hở thằng nhóc?
Ni-cô-la cúi đầu lặng lẽ làm công việc cất đặt những thứ đồ đạc của mình.
Từ đó, Ni-cô-la bắt đầu làm việc với lão thợ khắc già điên khùng và nhận ra rằng con dao cha cậu để lại là một thứ dụng cụ thô thiển không làm sao có thể so sánh với những con dao và những cái đục bén ngót xinh đẹp mà Marsden đang dùng. Cậu học việc hàng giờ liền, còng lưng trên chiếc ghế dài bên cạnh người thầy của mình, kiên nhẫn với một mẫu gỗ đến khi nó mỏng như một miếng gương. Ni-cô-la rất buồn vì không thể quen với sự cô đơn khủng khiếp trong ngôi nhà này và mong nhớ những ngày sống cùng những bạn bè thân thiết đầy ắp những tiếng cười xung quanh. Sau nhiều tháng trôi qua, để cho Marsden không nhận thấy, Ni-cô-la dần dần lau chùi và đánh bóng ngôi nhà trong chừng mực mà ông chủ có thể tha thứ được.
Một đêm nọ khi Marsden ngồi bên bếp lửa, lặng lẽ hút thuốc với chiếc tẩu dài cong của ông, ông nhận thấy Ni-cô-la vẫn khom lưng mê mải làm công việc gì đó.
"Lại đây chú bé" ông nói với cái giọng cộc lốc nhưng có vẻ tử tế "Tao không phải là một ông thầy khắc nghiệt đến nỗi bắt mày làm việc cả ngày lẫn đêm như thế. Mày đang làm gì thế hử. Sao không đi ngủ đi?
"Đó chỉ là một miếng gỗ nhỏ bác ném đi thôi mà" Ni-cô-la vội nói, "Cháu đang cố làm một bản sao chiếc ghế mà bác làm hôm nay, nhưng chỉ là một cái ghế nhỏ_ một món đồ chơi". Cậu bé kết thúc và bỗng hoảng sợ, bởi vì cậu biết rất rõ rằng chữ "đồ chơi" đối với ông già Marsden là ám chỉ đến bọn trẻ. Vì một vài lý do lạ lùng nào đó mà khi nói đến bọn trẻ với sự có mặt của ông là ông rơi ngay vào cơn thịnh nộ dữ dội.

Tuy nhiên, đêm nay ông lại tỏ vẻ bằng lòng với cái nhìn buồn bã: "Để tao xem thử. Hừm, cũng không đến nỗi tồi đấy, nhưng chỗ gồ lên mặt ghế bên này to hơn bên kia. Đây này, đưa tao cái con dao nhỏ". Ni-cô-la vội vàng đưa cho ông con dao nhỏ và nhìn người thợ già điêu luyện khéo léo chữa lại cái chỗ vụng về ấy một cách đáng khâm phục.
"Đấy" cuối cùng Marsden nói và đưa cái ghế nhỏ ra xa để xem xét, "phải làm như thế mới được"
Thế rồi, thay vì đưa chiếc ghế nhỏ cho Ni-cô-la, người đang mong đợi nó, ông vẫn giữ nó trong tay với một ánh mắt già nua buồn vời vợi khi ông nhớ đến những món đồ chơi ông đã làm cho hai đứa con trai của ông cách đây nhiều năm. Một nụ cười nở dần trên khuôn mặt già nua mệt mỏi làm Ni-cô-la chớp mắt nhìn. Phải, một nụ cười thật sự đang kéo xếch hai khóe miệng nghiêm nghị mà nhiều năm nay vẫn trễ xuống.
Marsden ngước lên và nhìn vào khuôn mặt ngây thơ với đôi mắt xanh của Ni-co-la.
"Cháu là một cậu bé ngoan, Ni-cô-la ạ, và.." ông nói gần như e thẹn, bởi vì không dễ dàng gì khi một người đàn ông thô lỗ lại thay đổi quá mau chóng như vậy, "Ta nghĩ, ta sẽ giúp cháu làm những món đồ nhỏ bé này. Chúng ta sẽ cùng làm trong những buổi chiều mùa đông dài này, phải không Ni-cô-la? Cháu có thể phân phát chúng vào ngày Giáng sinh trên chiếc xe trượt tuyết xinh đẹp của cháu. Có lẽ, đến khi ấy cháu có thể thích ở lại và sống với ta trong năm tới". Ông già nói thêm với một giọng nhẹ nhàng như thể nài nỉ.
Ông nắm chặt lấy cánh tay Ni-cô-la gần như dữ dội, một vẻ thanh thản dần dần hiện ra trên khuôn mặt của ông già cô đơn khi cậu bé trả lời đơn giản: "Vâng, dĩ nhiên rồi thưa thầy, con sẽ ở lại đây chừng nào thầy muốn"
Từ đó, mỗi buổi chiều mùa đông, người ta thấy hai mái đầu cắm cúi trên chiếc ghế làm việc. Một mái tóc dầy màu xám, bờm xờm và một mái tóc mượt mà vàng óng của cậu bé. Họ tất bật suốt tuần trước lễ Giáng sinh và với sự giúp đỡ của ông già trong việc khắc chạm, Ni-cô-la có thể thêm vào những chi tiết sinh động trong những món đồ chơi và làm chúng đẹp hơn bất cứ đồ chơi nào cậu đã làm trước kia. Cậu sơn những khuôn mặt búp bê để đôi mắt chúng màu xanh, gò má và đôi môi màu hồng thắm như những cô gái nhỏ, những người chẳng bao lâu sẽ ôm siết chúng trong tay. Những bộ bàn ghế nhỏ cũng được đánh bóng bằng những màu nhẹ nhàng mà Marsden vẫn dùng cho những sản phẩm của ông; những chiếc xe trượt tuyết và những chiếc thuyền nhỏ bé cũng sáng lên với những màu sơn mới, màu đỏ, vàng, xanh lá cây và xanh da trời.
Chỉ còn hai đêm trước lễ Giáng sinh, mọi việc đều hoàn tất. Mặc dù mỗi món đồ chơi cho mỗi đứa trẻ trong làng đều được gói lại trên chiếc xe trượt tuyết mới, Ni-cô-la và ông già vẫn cứ làm việc trên chiếc ghế. Lần này, họ cố hoàn thành cái tủ mà một quí bà giàu có ở cách làng 20 dặm đã đặt làm. Khi cái tủ được làm xong thì đã quá muộn vào ngày trước đêm Giáng sinh : "Ta xin lỗi" ông già Marsden nói khi đọc những ý nghĩ của Ni-cô-la." Ngày mai con sẽ phải mang nó đi. Lẽ ra chính ta phải đi, nhưng bây giờ ta không còn khỏe như trước nữa. Chuyến đi mất cả ngày, vượt qua hai mươi dặm, rồi con phải ở lại đó vài giờ cho lũ ngựa nghỉ ngơi, và vượt qua hai mươi dặm trở về.
"Giá mà bà ấy không muốn chiếc tủ vào ngày mai" Ni-cô-la đáp
"Nhưng mà", người thầy trả lời," Chúng ta đã hứa rồi, nó phải được giao đúng hẹn. Còn những đồ chơi thì đâu có hứa hẹn bây giờ ?"
"Không, nhưng cháu phải tặng cho chúng nó" Ni-cô-la ngắt lời.
"Ta sắp nói đây cậu bé, chúng ta đâu có hứa hẹn với chúng vào ngày Giáng Sinh. Bây giờ những đứa trẻ đã đi ngủ sớm. Tại sao cháu lại không thể?"
"Đúng rồi, sao lại không!" Ni-cô-la nhảy cẫng và hét lên: "Danh sách của mình đâu rồi, xe trượt của mình đâu rồi. Mình phải vội vã lên mới được"
Bên ngoài, ngôi làng đang im ngủ. Không ai thấy một bóng dáng đơn độc, chùm kín để khỏi rét, đang lướt xe trượt từ nhà này đến nhà khác, để lại những món đồ chơi nhỏ trước cửa cho đến khi hết sạch. Khi Ni-cô-la đi xa đến ngôi nhà cuối cùng thì lúc đó đã ba giờ sáng ngày Lễ Giáng Sinh. Chiếc xe trượt của cậu sáng lên, nhưng đôi chân của cậu thì quá mệt mỏi vì lê bước trong tuyết dày, nhưng cậu rất hạnh phúc vì ngày hôm nay là Lễ Giáng sinh và một lần nữa cậu đã giữ được lời hứa với những đứa trẻ trong làng.

Dec 19, 2009

Hôn nhân và tan vỡ

ist2_82686-broken-wine-glass by you.


     “Không thể chịu nổi nữa rồi, lần này phải dứt khoát thôi, cố gắng nữa chỉ làm khổ nhau…” – Chị bạn chán nản than thở, trong giọng nói hòa lẫn cả sự bùi ngùi chua chát lẫn khẩu khí một mực cương quyết. Rồi để đúc kết lại tâm sự riêng lẫn ý muốn truyền đạt kinh nghiệm, chị khuyên tôi: “Em đừng có ham mà lấy chồng nhé, chán lắm. Nếu có lấy thì lấy cái người nó yêu mình ấy, đừng có mà lấy người mình yêu, KHỔ !!”  

     Vợ chồng chị lại bất hòa, không biết đây đã là lần thứ mấy trong tháng này. 

     2 năm – đó không thể nào là lý do cho một cuộc hôn nhân đang trên bờ vực tan vỡ, bởi đó không phải là khoảng thời gian đủ dài để bảo rằng đã chán nhau, rằng những mặn nồng của tình yêu lứa đôi đã hết để nhường chỗ cho những lo toan con đàn cháu đống hay nhiệt tình yêu thương của tuổi trẻ đã cạn. Nếu bảo rằng lý do để chia tay là không có gì gắn bó hay sẻ chia cũng không phải, bởi một đứa con thơ đã đủ là sợi dây ràng buộc mạnh mẽ nhất gắn bó hai người trong cả trách nghiệm lẫn lòng yêu thương và sự quan tâm. Nếu bảo rằng những khó khăn trong quan hệ gia đình, cảnh sống gò bó lễ nghi mẹ chồng nàng dâu đã giết chết tình yêu thì cũng không phải, vì hai vợ chồng họ ở riêng, hoàn toàn độc lập.

     Lý do để dẫn đến những cãi vả mỗi ngày chỉ là những vụn vặt trong cuộc sống, mà đằng sau tất cả những bất hòa nhỏ nhặt ấy để dẫn đến đổ vỡ quá lớn lao hôm nay là do: Cái TÔI cùa mỗi người đều quá lớn.

-          “Con nhỏ đồng nghiệp của em cưới sau em có mấy tháng thôi, mà nó vẫn được chồng cưng chiều hết mực, được tung tăng đi chơi đây đó như còn độc thân, sướng ơi là sướng, chứ đâu như em phải loanh quanh chồng con nhà cửa suốt ngày, khổ làm sao…” - chị vừa rửa chén vừa than thở.

-          Em so sánh thế là để trách móc anh dở hơn chồng người ta à?! em nghĩ lấy anh là thua thiệt à?! em hối hận khi lấy anh à?! Làm vợ là phải ở nhà chăm sóc chồng con nhà cửa là việc đúng rồi, là việc người vợ phải làm…

-          Anh thật là ích kỷ nhỏ nhen …

-          Cô thì không ích kỷ nhỏ nhen à, làm vợ mà còn ham chơi, thích bay nhảy…

-    Anh im đi !!

     Cứ thế, tiếng bấc quăng đi thì tiếng chì ném lại, lời lẽ mỗi lúc mỗi thêm nặng nề cay nghiệt, không còn ai muốn cố gắng kiềm giữ lời lẽ của mình lấy một chút nhẹ nhàng ngọt ngào để giữ hòa khí. Bản chất lời nói là để diễn tả suy nghĩ, tình cảm của người nói, đích đến của lời nói là trái tim của người nghe chứ đâu phải lỗ tai của người nghe. Thường thì những người đang trong cơn tức giận, chỉ muốn nói cho hả lòng hả dạ mình, hình như lời nói càng cay nghiệt bao nhiêu thì người ta trong cơn tức giận càng thấy nhẹ nhỏm hả hê bấy nhiêu. Vì thế, những người đang cãi vả nhau thì ít quan tâm đến mức độ nguy hại và tàn nhẫn của những lời xỉ vả mình dành cho đối phương, nhưng mỗi lời đối phương ném lại thì mình lại ghi nhớ chắc chắn, như khắc cốt ghi tâm, rằng “hắn dám nói mình là như thế đấy, được, thế thì chẳng còn tình nghĩa gì nữa nhé…” và thế là… đổ vỡ !!

      Người ta bảo: hôn nhân có cãi vả mới càng hắn bó, sau cãi vả sẽ càng thấu hiểu và yêu nhau hơn. Điều đó tưởng chừng như là chân lý, nhưng cũng không hẳn, khi mà những nguyên nhân của cãi vả lần trước cũng lại là nguyên nhân cho những cãi vả lần sau, khi mà tần suất của những lần cãi vả  bất hòa  càng lúc càng sít sao nhau hơn, khi mà những bất hòa vợ chồng đã không còn là chuyện “giải quyết nội bộ, vợ chồng đóng cửa bảo nhau” mà đã thành chuyện bàn cãi của người lớn, của những người ngồi sui với nhau, những người đã được lên chức ông chức bà đáng kính…  Đến mức ấy thì khó mà hàn gắn !!

       Lấy người mình yêu hay lấy người yêu mình?!

      Lời khuyên của chị bạn làm tôi thấy bối rối: “nếu có lấy thì lấy cái người yêu mình ấy, còn được cưng chiều, chứ lấy người mình yêu, khổ lắm. Hôn nhân là mồ chôn tình yêu!”

     Chẳng phải hôn nhân là sự kết hợp của hai thân xác mà tâm hồn của hai thân xác ấy đã thuộc về nhau sao?! Và tôi nhớ một câu nói nổi tiếng định nghĩa tình yêu hôn nhân rằng “yêu nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng”. Ta có thể nào cùng nhìn về một hướng với người ta không yêu mến? Tình yêu và sự chọn lựa, có thể nào mang ý nghĩa như nhau được?!
Người ta thường bảo rằng: Rất khó để lấy được người mình yêu.

     Còn bây giờ thì tôi lại nói rằng: Cũng chẳng kém khó để có thể yêu mãi được người mình lấy.
Có đâu ít những cặp ra tòa ly hôn chỉ vì cảm thấy không hợp nhau, cảm thấy người mình yêu và kết hôn đã thay đổi, không được như xưa, hoặc là “sống với nhau mới nhận ra bản chất thật”. Hôn nhân có tình yêu đấy, vẫn ly hôn. Vậy đâu là giải pháp, là quy tắc?

     Còn những cặp lấy nhau chỉ vì người kia quá yêu mình, cũng chẳng ít cặp ly hôn tan rã. Tình yêu có thể nảy sinh trong quá trình chung sống nếu tình yêu và tính cách, tâm hồn của người này đủ mạnh hoặc đủ thích hợp để làm lay động trái tim của người kia. Còn nếu như tình yêu không đủ mạnh mẽ, và tính cách tâm hồn của người này không thích hợp với người kia, thì cho dẫu sống ngàn năm với nhau thì cũng không thể làm 2 trái tim đập chung một nhịp. Tình cảm là cái tự nhiên, không thể nào ép buộc được, kể cả thời gian và khoảng cách cũng không bắt ép được. Nếu người ta tìm được một nửa tâm hồn mình với người khác sau khi đã kết hôn không tình yêu thì tan rã là điều không tránh khỏi !!

     Một cô bạn của tôi đã từng hí hửng khoe rằng: “ngày em với anh ấy ra phường làm giấy kết hôn cũng là ngày em làm sẵn đơn xin ly hôn đấy. Trong phòng ngủ em, ngoài treo hình cưới em còn đóng khung treo cả cái đơn ly hôn để sẵn, để nhắc nhở anh ấy phải cẩn thận, có lỗi với em là em ký đơn liền, khỏi bàn cãi…”

     Có lẽ nào hôn nhân lại song song với tan vỡ là thế?!

Dec 9, 2009

Khoảng vườn của tôi

080828155957-663-893 by you.


        Sáng nay mở cửa bước ra sân, nhìn ngắm cái chỗ mình ở, vừa thấy buồn cười vừa thấy yêu đến lạ !

      Phòng tôi nằm ở trên cùng của nhà – em gái thường gọi đùa đó là cái “chuồng cu” của tôi, mở cửa phòng bước ra là khoảng sân khá rộng mà ba tôi lấy làm nơi “nuôi trồng và chăn thả”. Tôi gọi là “nuôi trồng và chăn thả” là vì: thay vì sân thượng của nhà người ta thì trồng hoa, cây cảnh làm nơi thư giãn của người trong nhà, còn sân thượng nhà tôi thì, ngoài trồng hoa ba tôi còn trồng cả rau dưa củ quả! Hôm đầu, ba đem về một cây chanh và bảo rằng: “con gà cục tác lá chanh”, lá chanh ở TP này là hiếm lắm đấy, nhà mình trồng một cây để sau này có ăn thịt gà thì có miếng lá chanh cho nó thơm”. Thế là cây nông nghiệp đầu tiên đã có đất sống trong khu vườn nhỏ của tôi. Rồi cứ thế, nào là khổ qua, khế, lựu, ớt... cho đến rau thơm hành ngò cũng có mặt trong khoảng đất bé xíu, và cũng được ba tôi chăm chút chẳng thua gì hoa cảnh.

      Đó là xong cái phần nuôi trồng, giờ đến cái phần chăn thả.

      Ngày xưa cái khoảng sân này là nơi anh trai tôi dùng để nuôi chim bồ câu. Anh tôi đóng những cái chuồng to nhiều ngăn, nhiều cửa sổ, trang trí đẹp mắt để cho bồ câu ở. Bồ câu có thói quen tìm bạn trăm năm và tạo thành cặp (chẳng thế mà người ta thường lấy hình ảnh cặp chim bồ câu trắng để tượng trưng cho Tình Yêu đôi lứa mà). Những con chim bồ câu anh tôi nuôi rất thông minh, chúng bay đi và dụ về rất nhiều nàng bồ câu của những nhà khác. Chiều chiều cả trăm con bồ câu mập ú núc ních chen nhau đi lại trong sân và đậu trên bồn nước hoặc những cây cọc, trông yêu lắm! Đó là cái thời của 6 – 7 năm về trước. Thế rồi có dịch cúm gia cầm A-H5N1, Tổ Dân Phố đến nhà và yêu cầu nhà tôi giải tán đám bồ câu để tránh gây lây lan dịch. Ba và anh tôi tiếc lắm nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Bán chúng đi cho người ta làm thịt thì không đành lòng, thế là anh tôi phá hết chuồng không cho chúng ở, để mong chúng thấy không còn chỗ nương thân mà bay đi. Nhưng loài vật, suy ngẫm thì nhiều khi thấy chúng còn tình nghĩa nhiều hơn cả con người, những con bồ câu của anh tôi – dẫu mất chuồng, bỏ đói, hàng mấy đêm ngày liền đứng chịu mưa chịu sương ngoài trời vẫn không chịu bay đi, mãi cho đến khi có một con bỏ mạng vì tội quá trung thành, đàn bồ câu mới chịu rã đàn bay đi nơi khác 

        Những cặp chim bồ câu bơ vơ, giống như những đôi lứa bị cản ngăn xua đuổi. Tội nghiệp!

        Bây giờ hết dịch cúm, anh tôi lại đem về cho ba tôi mấy con chim cảnh hót hay để ba nuôi đỡ buồn. Nhà đã có hai chú chó, giờ lại thêm một anh gà Thái Lan khỏe gáy, nhiều khi tôi nói đùa với bạn bè: “Nuôi thêm con bò nữa là thành nông trại”

       Người ta bảo: môi trường sống ảnh hưởng nhiều đến tính cách tâm hồn một con người. Cái nông trại mà ba tôi tạo dựng có lẽ cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tính cách của tôi. Tâm hồn tôi giống như một khu vườn rậm lá, lắm hương thơm và ồn ào tiếng chim hót lẫn gà gáy - trộn lẫn thanh tao và trần tục, đậm đà và khô khốc. Không có thời gian để chăm chút cho cây cối rau củ gà qué chim chóc như ba tôi, nhưng tôi rất thích nghe tiếng gà gáy, nghe tiếng chim ríu rít chí chóe cãi nhau, và đôi lúc là nhìn những con chim sẻ ở đâu sà xuống mổ trộm những hạt thóc hạt gạo vương vãi và chú gà nhỏ thì lẫn thẫn đi lại trong sân. Một vùng trời bình yên !! Tâm hồn cũng bình yên !!