Jun 23, 2009

Nhật ký về quê

“ Thưở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ …”



Ngày đầu tiên (12 June 2009) – 20:25

Sau 2 tiếng đồng hồ ngồi máy bay, rồi 2 tiếng đồng hồ tiếp theo ngồi Taxi, cuối cùng cũng về đến Hưng Yên – Quê hương của cha mẹ!!


Một cảnh tượng thật ấn tượng, thật không làm tôi thất vọng: những con đường làng nhỏ hẹp nhưng đã được trải nhựa sạch sẽ, rơm rạ phơi đầy đường làng, những ụ rơm to đùng nằm chễm chệ trong sân các nhà ven đường, và nhất là nhãn, nhãn nhiều vô kể, đâu đâu cũng có nhãn. Những cây nhãn rất to và cao, tán xòe rộng, cành nhãn vươn dài sang các nhà lân cận và vắt ngang ra cả giữa đường làng, làm con đường giữa trưa hè oi ả cũng trở nên rợp bóng mát và hương nhãn… (nhưng chưa tới mùa, nên nhãn vẫn còn bé lắm, tiếc thật!!)


Cuối cùng chiếc taxi cũng chịu dừng lại trước khẩu hiệu của ba tôi sau khi đã cố len lỏi vào hàng mấy chục khúc quanh co hẻm hóc. Nhà ba ở phía bên kia một cái ao rộng và trong vắt, soi bóng bầu trời cao vun vút và xanh ngăn ngắt. Con đường quá hẹp để taxi có thể vào đến tận trong nhà. Ba xuống xe, gọi chú ra đón. Đã nghe thấy tiếng nhốn nháo đáp lại từ trong nhà, rồi tiếng chó sủa, và tiếng trẻ con gọi nhau í ới. Chỉ 2 phút sau đã thấy hơn chục người ra đón, cả người thân họ hàng lẫn hàng xóm xung quanh. Người kéo hộ vali, người xách hộ cái giỏ, cười cười nói nói như trẩy hội làng, họ vui như đón chính người thân của mình về vậy. Cái tình nhà quê nó là thế đấy!!


Nhà chú là nhà ngói đỏ bình thường, có khoảng sân rộng để phơi lúa vào mùa gặt, trong sân có cái bể bằng ximăng thật to để đựng nước mưa, sau nhà có vườn nhãn và những ụ rơm to – hoàn toàn giống những gì tôi đã thấy trong những bộ phim về nông thôn miền Bắc.


Sau bữa cơm trưa thân mật, để mặc ba ngồi nói chuyện với họ hàng láng giềng, anh chị và mấy đứa cháu đã thấm mệt và ngủ lăn lóc trên giường, tôi một mình xách máy ảnh đi lang thang xung quanh, tìm một chút không khí quê hương, hay cố moi trong trí óc những điều ba mẹ đã kể trước đây để mà so sánh: cái cầu ao này, cái sân này, cái cổng làng này, những bụi tre với đàn gà bươi đất tìm thóc này… Hầu như tất cả đều đã có đủ cả, thế mà tôi vẫn cảm thấy thiếu thiếu cái gì ấy…


Bữa tối, gia đình chú giết 2 con vịt. Bữa trưa thì giết 2 con gà, buổi tối lại giết 2 con vịt, chúng tôi về quê làm gia đình chú rất vui mà cũng hơi “tốn kém” thì phải, thật ngại hết sức.


Sau bữa cơm tối, cả nhà trải chiếu ngoài sân ngồi uống nước chè (trà) trò chuyện. Những chuyện từ cái ngày xửa ngày xưa như từ vùng trời cổ tích nào bay về được ba và chú cùng các ông các cụ hàng xòm kể lại. Những chuyện này tôi đã nghe lâu lắm rồi, nghe mãi… Chợt thấy nhớ mẹ ở nhà. Nếu có mẹ cùng về, chắc chắn câu chuyện sẽ đầy đủ hơn, vì mẹ nhớ rất nhiều những câu chuyện làng quê, nó in đậm trong tâm hồn của mẹ…


(thăm hỏi ...)



(con đường làng hẹp dẫn vào nhà ông bà nội: một bên là bờ ao, một bên là vườn nhà)




(làm dáng chụp hình đằng sau nhà -.-")


(về quê, đống rơm khô cũng thấy là đẹp !!)


(thăm mộ ông bà nội, sẵn nén nhang, thắp luôn cho những người nằm bên cạnh, "người làng với nhau cả mà" - ba tôi bảo vậy)




Ngày thứ hai (13 June 2009) – 18:30


Bị đánh thức bởi tiếng gà gáy sáng, con gà đã thực sự làm tròn sứ mạng của nó là đánh thức. Thật ra thì nó chỉ đánh thức tôi thôi, chứ người nhà quê họ đã dậy từ trước khi gà gáy rồi.


Đêm qua trời đổ mưa, nên sáng nay không khí mát mẻ hẳn. Những cây nhãn cây bưởi trong vườn được một đêm tắm mình trong nước mưa, sáng nay trông xanh tươi lắm. Hít hà mấy hơi để lọc không khí trong phổi, tống nốt ít chất độc thành thị còn sót lại trong người, tôi dắt đứa cháu nhỏ ra sân nhà thờ Vĩnh Phúc cách nhà chỉ một quãng đường.



Đường làng vắng vẻ ít người qua lại, chắc họ ra đồng gặt lúa cả rồi, đương mùa gặt mà lị !! Thỉnh thoảng có vài người làng vác cuốc đi ngang qua, nhìn chằm chằm vào mặt tôi rồi reo lên như phát hiện ra điều gì thú vị lắm: “Á à, con mẹ Việt đúng không? (chả là ba tôi tên Việt mà lị). Nhìn mặt là biết liền, tiên sư mày, khuôn mặt giống mẹ như tạc”. Chẳng biết tôi có giống mẹ thật không, nhưng vẫn cười tươi trước lời chào thân thiện ấy. Còn nhớ chiều qua ba dẫn chúng tôi đi ra nghĩa trang làng, gặp người nọ người kia chào hỏi, người nọ chưa đi khuất đã gặp người khác đến, thành thử chúng tôi cũng phải cười suốt, cười đến trẹo cả quai hàm, nhưng thật lòng mình thì thấy vui thật. Ba thì như sống lại cái tuổi trẻ của một anh văn thư xã ngày ấy. Thấy ba vui thế, tôi cũng mừng.



Trưa trưa, chúng tôi lại gọi một chiếc taxi để sang quê mẹ - xã Liên Phương, cùng tỉnh Hưng Yên nhưng cách làng của ba độ 20km (nhà ba ở Làng Vĩnh Phúc, xã Đồng Thanh, huyện Kim Động. Mẹ ở xã Liên Phương, huyện Tiên Lữ - cùng tỉnh Hưng Yên).



Đây là nơi mẹ tôi đã sinh ra và sống gần nửa quãng đời, từ thưở ấu thơ đến ngày mẹ rời bỏ nó theo chồng sang làng khác. Mỗi lần mẹ kể về quê nhà, mắt mẹ lại ươn ướt. Mỗi lần đến đoạn mẹ lấy ba rồi rời bỏ căn nhà để sang nhà chồng, giọng mẹ nghẹn laị và như pha chút gì hờn giận trách móc. Dường như mẹ giận ba đã lấy mẹ, đã đem mẹ ra khỏi vòng tay bà ngoại và quãng trời tuổi thơ mà mẹ rất yêu và rất gắn bó. Nơi này đã thay đổi nhiều lắm rồi, gần như không còn cái gì là nguyên vẹn từ thưở mẹ còn thơ ấu: căn nhà mẹ sống ngày xưa là nhà cổ năm gian ngói đỏ, mỗi cái cột nhà to như cái cột đình làng vậy, và có khắc chữ nho mạ vàng đẹp lắm. Mẹ kể: nhà mẹ ngày ấy giàu nhất xã Liên Phương, thuộc hàng địa chủ, trước nhà có cái cầu ao (như nhà ông nội vậy), mẹ thường ra đó giặt quần áo; trong sân có cái bể nước thật to phải ghánh 200 ghánh nước mới đầy. Ông ngoại mất từ ngày mẹ còn bé xíu, mẹ không nhớ được mặt nữa. Nhà có 5 mẹ con: 1 con trai và 3 cô con gái. Nhà thì giàu có đấy nhưng không mướn người làm, nên bà đã sớm rèn mấy đứa con gái trong nhà nên nết lắm: từ ghánh nước, giặt giũ, vườn tược cho đến trẩy nhãn vào mùa cũng đều là các con làm cả. Rồi mẹ lấy chồng, các chị cũng lấy chồng và ra đi cả. Chỉ có mỗi anh trai mẹ lấy vợ và ở nhà tổ với bà ngoại. Nhà nằm gần khu thị xã sầm uất, thời đại đã mang cái không khí thời thượng nhiều đổi thay bay vào trong từng ngóc nghách làng xã, bay vào từng nhà và cũng không chừa nhà bà ngoại, cái hơi hướm thành thị ấy bay vào mũi bác tôi, chui vào trong não và làm thay đổi tư tưởng lẫn tình yêu thương của bác. Căn nhà cổ vững chãi không hề suy suyển dưới sức mạnh tàn phá của chiến tranh, nhưng lại nát tan dưới cái sức mạnh của thời buổi hiện đại hóa!! Bác phá đi căn nhà cổ đồ sộ như cái đình làng ấy, để thay bằng căn nhà 2 tầng bê tông cốt thép sơn trắng tinh. Vào thời ấy mà xây nhà tầng, bê tông cốt thép như thế đã là giàu có lắm, rồi bác lấp luôn cả cái cầu ao và chặt luôn cả những gốc nhãn già thân thương vốn là niềm vui và trò giải trí của mấy anh em những ngày còn bé. May mắn thay cũng còn chừa lại được vài ba gốc nhãn còn tồn tại đến tận bây giờ.



Những năm ấy (1979 - 1980), thì bên làng này, nhà ba mẹ tôi gặp bão đổ sập, ba mẹ bỏ làng quê vào Sài Gòn. Biết sự thay đổi ở nhà mình, mẹ cũng không muốn quay về nữa, dù lòng rất thương bà ngoại.



Hôm nay chúng tôi vê đây, không để ý nhiều đến căn nhà sơn trắng ấy, mấy anh em tôi loanh quanh trong vườn, tìm kiếm những cái cũ kỹ, những cái cũ kỹ đã từng lưu giữ dấu chân của mẹ, của bà còn sót lại. Đó mới là cái mà mấy anh em chúng tôi tìm kiếm – tìm kiếm những kỷ niệm của mẹ chúng tôi.





(úi cha! hít đất là thường rồi, giờ thi ... "hít cây" - một nỗ lực đáng khâm phục !!)


(không biết ngày xưa mẹ trèo cây nhãn giỏi cỡ nào, mà bây giờ con cháu đứa nào cũng có khiếu ...leo trèo !!)




(cây nhãn già cụ kị ngày xưa mẹ leo, giờ lại đến con leo!)




Ngày thứ ba (14 June 2009) – 21:30



Buổi sáng, ba dắt chúng tôi sang thăm nhà bác T – là chị gái của mẹ.



Bác trông trẻ hơn mẹ, nhưng rất giống mẹ: từ khuôn mặt tròn tròn với giọng nói tươi vui, nụ cười rạng rỡ, đến cái vẻ đôn đả chào đón khách: Mỗi khi nhà có khách, nhất là con cháu đến, thì lại lôi hết những thứ gì có thể ăn được trong nhà ra mời!! Những lúc ấy, khi ở nhà, tôi lại thường cằn nhằn mẹ: “Mẹ, nhà tụi nó có thiếu thứ gì đâu mà mẹ cứ làm như tụi nó đói ăn lắm vậy!” Nói là nói vậy thôi, chứ tôi hiểu, cái tình người nhà quê nó thế. Dẫu mẹ đã sống ở Sài Gòn mấy chục năm rồi, nhưng mẹ vẫn là người xuất thân từ nông thôn miền Bắc, mà người miền Bắc thì trọng cái tình lắm lắm. Hơn nữa mẹ lại là người sống giàu tình cảm yêu thương, thì việc thể hiện tình cảm quá mức là điều không trách được. Đó là một điều tốt đẹp! Không chừng tôi cũng đang được thừa hưởng chút gì từ cái gen tốt đẹp đó của mẹ!!!



Nhà bác tôi nghèo lắm: một căn nhà gỗ 3 gian buồng ọp ẹp, một khoảng sân nhỏ phơi đậu phộng, một bể nước mưa và một gốc nhãn to đùng rợp bóng mát cả cái khoảng sân lát ximăng sạch sẽ. Buổi trưa mà mắc võng ngủ dưới gốc nhãn đó thì tuyệt lắm! Hai bác sống với nhau, con cái thì đều đã lớn và đã ra ở riêng cả. Nghĩ mà thương hai ông bà cô quạnh.



Chúng tôi chỉ ngồi chơi chuyện trò hỏi han một lúc, nhờ bác dẫn ra thăm mộ bà ngoại, để rồi lại lên xe đi luôn. Biết chúng tôi chỉ đến chơi chốc lát thế, rồi lại đi ngay, mặt bác tôi không giấu được cái buồn bã đến ngẩn ngơ bất ngờ. Nhưng cũng chẳng làm gì khác được. Chúng tôi về quê, thật thoáng chốc rồi lại vội vã đi ngay, giống như một làn gió mát êm đềm từ một cánh đồng nội ngát hương hoa nào đưa đến, bất ngờ ùa vào căn nhà này không hề báo trước, lưu luyến lại vài giây rồi lại bay đi, mà hai bác thì bất lực không thể nào nắm giữ được. Để rồi khi chúng tôi đi khỏi rồi, bác gái lại lặng lẽ ngồi phơi đỗ trong sân hoặc ra chuồng cho gà ăn, còn bác trai lại lủi thủi vào bếp đem kho mặn con gà vừa cắt tiết dự định đãi chúng tôi để hai bác ăn dần cả mấy ngày mới hết !!!



Chúng tôi lại thuê một chiếc xe để đi qua Nam Định – quê của chị dâu, cách Hưng Yên độ chừng 70 km.



Về quê vào mùa gặt, đặc điểm chung là đi đâu cũng thấy phơi rơm rạ. Làng xã bên Nam định hơi khác bên Hưng Yên một chút: Ở đây cũng có ruộng lúa, nhưng ruộng là ruộng mà nhà là nhà, nhà không có vườn hay gắn liền với ruộng như ở quê ba mẹ tôi. Những căn nhà nằm san sát nhau như nhà trong thành phố, với các hẻm hóc vòng vèoo uốn lượn. Nhà thì hầu như đều chung một kiểu: nhà cổ năm gian ngói đỏ. Còn ruộng thì ở xa hơn, ngoài cánh đồng, mỗi nhà có một mảnh ruộng, tới mùa gặt thì họ tráo đổi công cho nhau. Ở Hưng Yên, nhà tuy cũng không nằm sát với ruộng, nhưng mỗi nhà đều có vườn, là vì ngoài nghề trồng lúa, họ còn kiếm sống bằng nghề trồng vườn, mà cụ thể là nhãn, vải và bưởi. Còn ở Nam Định, ngoài trồng lúa, thì họ sống bằng một nghề truyền thống khác là nhuộm vải và làm hoa giả. Vì thế đi vào làng Báo Đáp – Nam Định, tôi có cảm giác giống như đi thăm các làng nghề truyền thống ở khu vực ngoại ô Hà Nội.




(làng quê vào mùa gặt, đâu đâu cũng thấy phơi rơm rạ)



(kiểu nhà cổ năm gian - ngói đỏ)



(đun bếp bằng củi tre và trấu - vỏ thóc)




Ngày thứ tư (15 June 2009 –Nam Định)



Dân làng Báo Đáp – Nam Định rất yêu Đạo Thiên Chúa, Nhà Thờ và Đến Thánh ở đây nhiều lắm. Buổi sáng, tôi cùng ba, anh Văn và chị Dâu đi lễ ở nhà thờ làng Báo Đáp.



Nhà thờ rất lớn và đẹp, nhưng lối kiến trúc bên trong thì không đẹp và cầu kỳ như của nhà thờ Vĩnh Phúc quê ba, chỉ có điều là nhà thờ này được bao quanh bởi những hồ nước trong vắt soi bóng bầu trời và mây xanh mây trắng, khiến cho người đến đây có cảm giác thanh bình.


( chụp tấm hình với ba, anh trai và chi dâu trong sân Nhà Thờ làng)



( với chị dâu)






Ngày thứ năm (16 June 2009 – lại một ngày nữa ở Nam Định)



Chủ yếu là loanh quanh trong nhà, phụ mẹ chị dâu nấu cơm, quét nhà. Lần đầu tiên được nấu cơm bằng bếp củi và trấu, thấy cũng hay hay!!


Em gái chị dâu chở ra chợ Thị Xã mua ít quà về cho mọi người. Đi đâu, tôi cũng rất thích mua quà tặng.





Ngày thứ sáu và thứ bảy – Huế - Thánh Địa La Vang




Ba lên xe quay về lại Hưng Yên, vì có chút việc phải làm ở quê, và cũng muốn có thêm nhiều thời giờ thăm họ hàng làng xóm. Còn mấy anh em tôi vì đều bận công việc, nên chỉ có thể thăm mỗi nơi một chút.



Trước khi về lại Sài Gòn, chúng tôi ra Huế, thứ nhất là để viếng Thánh Địa La Vang, hai là để cho 2 đứa bé có một dịp đi tham quan Cố Đô Huế.



Ở quê ba mẹ thì tôi mù tịt, nhưng về đến Huế là "đất" hoạt động của tôi rồi, tôi lại có dịp được làm hướng dẫn viên cho cái nhóm khách gia đình nhỏ này!!


( hồ sen trắng trong Đại Nội)



( bên dòng Hương Giang)



( "Đã hóa tượng đá trăm năm mà vẫn chưa yên thân với đàn bà !! >.<")



( trong Thánh Địa La Vang)




( thư giãn ở Suối Nước Nóng)




( "chúng em giống nhau như tạc" >.<")