Dec 31, 2009

Chết trẻ

oldcouple by you.

      Tối nay, tối Giao Thừa của một năm Dương Lịch kết thúc, đã dự định đi vi vu đâu đó mừng Giao thừa và đón năm mới với vài người bạn, lại phải thay đổi kế hoạch vì một bất ngờ không chờ đợi – đi viếng đám tang bạn cũ.

      Trên đường đến điểm hẹn với các bạn để cùng nhau đến nhà B – anh bạn xấu số rời bỏ dương thế vào những ngày cuối cùng của năm, trong đầu tôi cứ lẩn quẩn những hình ảnh ngày xưa của người bạn ấy. Gương mặt góc cạnh ương nghạnh luôn vênh vênh ngang tàng mỗi khi bị thầy bắt phạt vì tội trốn tiết hay không làm bài tập, cái dáng cao cao hơi gù và mái tóc dài chùm xuống tận cổ vốn là cái gai trong mắt thầy giám thị trường – đó là tất cả những gì còn sót lại về ngoại hình của người bạn ấy. Lâu lắm rồi không gặp từ sau ngày cậu ta kết hôn, nghe nói giờ đã thay đổi nhiều, cả về ngoại hình lẫn tâm tính.

      Người ta, suy cho cùng thì chỉ ngang tàng khi còn có thể ngang tàng được, thoải mái để cho cái tuổi xuân của mình tự tung tự tác trong cái gọi là độc thân không vướng bận. Một khi đã có gia đình rồi, thì muốn ngang tàng cũng không thể ngang tàng được. Cái ngang tàng không thể đem ra chợ bán lấy tiền để đổi rau đổi gạo. Có gia đình, bắt buộc phải thay đổi, có khi vì tình yêu, có khi vì trách nhiệm.

      Người ta, đến trong thế gian thế nào thì ra đi cũng thế ấy: tay trắng. Cậu bạn tôi ra đi mà cũng không quên gửi lại cho thế gian một cô bé con chỉ vừa tròn 3 tuổi – cái tuổi chưa đủ hiểu thế nào là 2 chữ “mồ côi”. Trong đám viếng hôm nay, có vài người già thì thầm nhận xét: “Chết trẻ quá, vợ lại trẻ đẹp thế kia, được 1-2 năm là theo thằng khác ngay thôi. Chung thủy gì ngữ ấy? Đâu như cái thời chúng ta ngày xưa, cứ gọi là son sắt tiết hạnh đến chết….”.  Cái bản án vô hình đề ba chữ “thiếu tiết hạnh” như đang treo lơ lửng trên đầu cô vợ trẻ. Ai buồn nhất ?! Có lẽ là người chết, bởi nếu có nghe được những lời nhận xét kia, anh cũng không trách họ, trách vợ, mà chỉ trách mình: “giá như ta đi làm về rồi về nhà luôn, đừng đi nhậu nhẹt với mấy thằng đó, giá như …”

      Hôm nay, 31/12 Tòa Án ND TP Hà Nội xét xử vụ án cô nữ sinh viên trường Sư Phạm - Vũ Thị Kim Anh - giết người tình cũ trong chiếc xe Lexus. Tòa tuyên án 14 năm - Có người thương hại xót xa cho cô, ngược lại cũng có người giận Tòa Án đã tuyên án quá nhẹ. Sau gần 1 năm trời điều tra tìm hiểu, rốt cuộc thì vụ án cũng đi vào hồi kết bằng một bản án của pháp luật và rồi chắc chắn cũng sẽ rơi vào sự quên lãng của người đời. Nhưng liệu cô gái bị cáo có thể quên tất cả? 1/ 3 cuộc đời trong trại giam là quãng thời gian để cô cố gắng làm lại, hay rồi sẽ luôn miệng thở than: “giá như ta đừng sống buông thả thì nay cũng đã là một cô giáo đứng trên bục giảng ... ?”

      Đó là sự trả giá của cô từ những cám dỗ cũng như những kỹ năng cần thiết để ứng xử với các quan hệ trước ngưỡng cửa cuộc đời. Ai cũng có thể tự lựa chọn tình yêu cho mình, nhưng không được vượt qua những giới hạn của pháp luật, của luân thường đạo lý bởi nếu điều đó xảy ra, chính ta chứ không phải ai khác, sẽ phải chấp nhận những bi kịch đến với mình và lúc đó, chắc chắn không còn cơ hội để sửa chữa mọi lỗi lầm.

     Đời người giống như mảnh vải trắng thẳng thớm mà khi ta sinh ra trên cõi đời ta đã mang theo. Giữ cho nó sạch trắng được bao nhiêu phần trăm so với lúc ban đầu cho đến chung cuộc cuộc đời là một quá trình dài dằng dặc cả đời người. Mỗi vệt bẩn vây lên đều không thể hoàn toàn tẩy sạch được. Khó biết chừng nào !!

    Trong Đạo Thiên Chúa, mỗi con người từ khi sinh ra đến khi mất đi, sẽ có 3 lần vinh hạnh được người thân họ hàng đông đúc đưa đến Nhà Thờ với Chúa: lần đầu là khi vừa sinh ra, lần thứ hai là khi kết hôn và  lần thứ ba là khi người đó nhắm mắt lìa đời. Khi ta còn bé được đưa đến Nhà Thờ là khi ta chỉ biết khóc và người thân quanh ta thì cười sung sướng. Khi ta đến Nhà Thờ với người bạn đời tay trong tay thì ta và họ hàng cười toe toét còn cha mẹ ta thì khóc, khóc vì thấy con hạnh phúc. Và khi ta đến Nhà Thờ lần cuối để chào Chúa, ta sẽ không cười cũng không khóc được nữa…, trong bạn bè người thân đã có người còn người mất so với hai lần trước. Sống tốt thì khi ta nhắm mắt, có lẽ ta sẽ mỉm cười và sẽ nhiều lắm những giọt nước mắt tiếc thương, còn ngược lại thì chỉ toàn những cái mỉm cười mỉa mai hay những giọt nước mắt giả nhân giả nghĩa ...

     Chỉ mong sao tôi có thể sống như một người bình thường, hạnh phúc. Hạnh phúc dễ tìm nhưng khó giữ mà. Phải choàng hết hai vòng tay ấm nồng mà siết chặt lấy mới giữ được. Chắc chắn không có tay để cố gắng ôm trọn lấy hạnh phúc này mà vẫn choài tay với bắt hạnh phúc khác, vì như thế thì ngay cái đang có cũng sẽ vuột mất.

Dec 23, 2009

Santa Claus

Ong-gia-2 by you.
Đêm mai là Đêm Giáng Sinh rồi. Ông già Noel có đến tặng quà cho tôi không nhỉ?!
Mới cách đây 6 – 7 năm thôi, tôi còn tin là ông già mặc bộ đồ đỏ viền trắng, thắt thắt lưng đen, chòm râu bạc trắng, giọng cười hô hô và đi đâu cũng phát tiếng kêu leng keng mà người ta gọi là Santa Claus ấy là có thật. Chỉ khác với những tấm bưu thiếp và phim hoạt hình là: ông già Noel mà tôi tin là có thật thì đi bằng xe cưỡi tuần lộc hoặc bằng ngựa kéo, và đi dưới mặt đất chứ không có bay trên trời; ông ấy cũng có gia đình, và các con trai cháu trai ông ấy lại tiếp tục sự nghiệp của Cha là tặng quà cho trẻ nhỏ vào dịp Giáng Sinh, bất kể đứa trẻ nào họ gặp.
Thật trẻ con. Đôi khi tôi buồn cười cho chính mình với những niềm tin ngây thơ đến mức trẻ con, như việc có thời tôi đã tin chắc là trên đời này có Đô-rê-mon và tôi hi vọng sẽ được gặp chú mèo đáng yêu ấy, rồi tin có Ông Già Noel, tin các con vật cũng biết nói chuyện với nhau, cũng tình cảm yêu thương hay giận hờn thù ghét - hệt như con người, tin có những điều ước sẽ thành sự thật khi trông thấy sao băng hay cầu vồng … Nói chung là tôi tin tất tần tật những gì tôi cho là tốt đẹp mà người ta nói với tôi rằng nó là có thật. Dẫu sao thì, những niềm tin đó, nếu có là bị lừa gạt, thì tôi cũng chẳng mất mát gì, vì nhờ nó mà tôi có một trời tuổi thơ hồn nhiên tươi đẹp và nhiều mơ mộng – điều mà trẻ con bây giờ ít có được.
Bây giờ đọc sách báo, thấy người ta bảo rằng Ông già Noel là hóa thân của Thánh Nicolas ở thành Myra, Thổ Nhĩ Kỳ.  Hình ảnh một vị thánh và hình ảnh một ông già hiền hậu với một túi quà to trong đêm Noel – 2 hình ảnh tương đồng quá chứ.

CUỘC ĐỜI ÔNG GIÀ NÔ-EN
Nguyên tác BRYAN GRIFFIN

----o0o----

Chương Một
CƠN BÃO

Ngày xửa ngày xưa, trong một ngôi làng nhỏ trên bờ biển Baltic, có đôi vợ chồng người đánh cá sống trong một căn nhà bằng đá với hai đứa con, cậu con trai năm tuổi là Ni-cô-la, còn đứa em gái của nó là bé Kây-ti.

Một buổi chiều nọ, khi Ni-cô-la ngồi bên cửa sổ và đẽo một mẩu gỗ trôi dạt, cậu nhìn thấy sự thịnh nộ của cơn bão trên những tầng mây. Cậu có thể nghe được tiếng ầm ào của những con sóng đập vào bờ biển ở ngòai xa, ý nghĩ của cậu hướng về người cha đang phải chống chọi với cơn bão trên con thuyền đánh cá mỏng manh. Vài phút sau Ni-cô-la không còn có thể nghe thấy tiếng sóng đập xô nữa vì những tiếng đập rào rào của trận mưa đá dội lên tấm kính cửa sổ. Trời tối sầm lại khi Ni-cô-la hỏi mẹ bằng một giọng lo âu, "Mẹ, mẹ có nghĩ là bố sẽ được an tòan ở ngòai kia không?" Cậu bé không nhận được câu trả lời. Mẹ cậu quá bận bịu trong việc chăm sóc em bé Kây-ti đang lên cơn sốt nằm trong chiếc cũi. Cuối cùng bà đứng dậy với ánh mắt lo âu và bộc lộ tất cả nỗi niềm cho Ni-cô-la.

"Em gái của con đang bị sốt, mẹ không thể chờ bố con được nữa. Ni-cô-la, mẹ muốn con ở ngay bên cạnh em và đắp lên trán em những tấm vải ướt này để em hạ sốt. Mẹ sẽ trở về ngay khi nào có thể" Bà vừa nói vừa vỗ nhẹ lên cái đầu vốn hay đãng trí của Ni-cô-la. Sau khi khóac lên người chiếc áo chòang bà vội vã bước ra ngòai trời đêm đen tối, một cơn gió mạnh thổi những bông tuyết xuyên qua cửa vào trong nhà ngay khi bà vừa bước ra Ni-cô-la trông chừng Kây-ti hàng giờ một cách kiên nhẫn, cho đến khi con bé đẩy hết đống chăn đắp sang một bên và khuôn mặt cô bé trở nên trắng bệch và cậu bé sờ vào cái trán bé nhỏ thấy mát dần. Khi đống tro trong lò lửa chuyển từ màu đen sang màu xám thì đầu của Ni-cô-la đã gục xuống và cậu bé đã ngủ ngay trên sàn nhà bên cạnh chiêc cũi.
Đó là tư thế mà sáng hôm sau những người dân làng nhìn thấy cậu bé khi họ đến báo tin buồn là cha cậu đã bị cuốn mất hút vào trong cơn bão. Mọi điều còn chưa hết tồi tệ, họ cũng đã kể cho cậu bé biết rằng bà mẹ đáng thương của cậu đã bị chết vì một chiếc cây ngã đè lên người trên đường tới nhà bác sĩ. Giờ đây cái gia đình đã một thời hạnh phúc với bốn người giờ chỉ còn một mình Ni-cô-la. Cậu đã trở thành đứa trẻ mồ côi.

Chương hai
Những món quà giáng sinh đầu tiên

Giờ đây ai sẽ là người chăm sóc bé Ni-cô-la khi cậu chỉ còn lại một mình trơ trọi trên thế giới này? Những người đánh cá và những bà vợ của họ đã tụ họp để bàn về số phận của cậu bé. "Dĩ nhiên chúng ta sẽ chăm sóc cậu bé" một người nói "nhưng thật không dễ dàng gì khi đã phải nuôi năm đứa rồi mà cậu bé thì đang tuổi lớn"


"Bây giờ thì đang giữa mùa đông những ngày tốt để ra khơi thì khi có khi không" một người khác nói "may mắn thì chúng ta mới đủ ăn cho đến mùa xuân"


Lúc đó bà Bavran hiền lành phúc hậu nói: "Chúng tôi đã dự trữ thức ăn cho mùa đông này rồi, và chúng tôi cũng có một cái giừơng cũ, vì vậy chúng tôi có thể nhận cậu bé tội nghệp đó. Nhưng xin các bác nhớ kỹ cho là cuộc sống của một người đánh cá không bao giờ dễ dàng cả" bà nói thêm "nào ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra trong những năm sắp tới? Tôi nghĩ chúng ta phải chia sẻ với nhau vì Ni-cô-la. Ơ dây chúng ta có mười người, vì vậy mỗi chúng ta sẽ phải nhận nuôi cậu bé một năm, nhờ đó cậu bé sẽ được chăm sóc đến năm mười lăm tuổi, và hiển nhiên là cậu bé biết ra khơi trước khi cậu được mười lăm tuổi.


Mọi người đều đồng ý, vì vậy Ni-cô-la đến sống với gia đình Bravan vào ngày trước Lễ Giáng Sinh một ngày. Sự náo nức của lũ trẻ chỉ làm cho Ni-cô-la cảm thấy khổ sở, và thế là cậu thu người trong một góc phòng, khóc nấc lên vì nỗi đau khổ vì mất mẹ, cha và em Kây-ti yêu quí, Ni-cô-la cố tránh nghe những âm thanh vui nhộn trong nhà. Thế nhưng cánh cửa đã chầm chậm mở ra, một bóng dáng nhỏ bé xuất hiện…

"Mày muốn gì" Nicholas hỏi với giọng gần như thô bạo. "Cút ngay, tao muốn một ở mình"
Đứng ngay giữa cửa, miệng cậu bé run run: "thuyền của em bị gãy rồi". Rồi cậu bé bật khóc: "Đây là cái mới nhất cho lễ Giáng sinh đó, thế màbây giờ cha thì ra khơi rồi, mẹ thì không thể lắp lại được. Em biết làm sao bây giờ?" Cậu bé hỏi và trong bàn tay cầm chiếc thuyền đồ chơi bị gãy. Ni-cô-la đưa tay áo lên chùi nước mắt và cầm lấy mẩu đồ chơi bị vỡ. "Anh sẽ gắn nó lại cho em", cậu nói và quay trở lại trong cái góc đơn độc của mình.
"Anh ra nơi có ánh sáng đây này" cậu bé Bavran nói.
Thế là Ni-cô-la bước vào nơi sáng sủa hơn, có nhiều đứa trẻ và nhiều tiếng cười hơn. Thóang chốc cậu quên mất nỗi buồn của mình.
Nhiều tháng trôi qua, Ni-cô-la dần dần yêu mến những đứa trẻ nhà Bavran, Ốt-tô, Matgaret và Gretchen. Cậu thích chơi với chúng, nhưng cậu biết điều này sẽ không kéo dài được bao lâu. Khi ngày lễ Giáng sinh kế tiếp đang đến gần và gia đình Bavran bàn về việc Ni-cô-la sẽ rời họ, cậu bối rối và hỏang sợ, tuy nhiên những ý tưởng chính trong đầu cậu vẫn là làm thế nào cậu có thể đền đáp lại lòng tử tế của họ. Ni-cô-la ước ao cậu có thể cho tất cả mọi người một món quà, nhưng tất cả mọi thứ của cải cậu có được trên đời này chỉ là những chiếc áo cậu mặc, một chiếc áo chòang đặc biệt và những chiếc quần dài, một chiếc tủ cũ và một con dao bỏ túi trước kia là của bố cậu. Cậu không thể nào rời bỏ những thứ này. Bỗng dưng một ý tưởng kỳ diệu lóe lên trong đầu cậu. Cậu sẽ đẽo những đồ chơi cho lũ trẻ như trước kia cậu vẫn làm cho bé Kây-ti em gái nhỏ của cậu.
Vì vậy, hai tuần cuối cùng ở với gia đình Bavran, Ni-cô-la làm việc một cách bí mật trong nhà kho tối tăm, giấu ngay mẩu gỗ và con dao khi nghe có ai đến gần. Cậu làm việc cật lực suốt những ngày cuối cùng vì vậy tất cả những quà tặng đã hòan thành vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh. Hơn nữa, đó cũng là ngày mà mùa đông trước gia đình Bavran đã đem cậu về và giờ đây thời hạn đã hết, cậu sẽ phải chuyền sang gia đình khác.
Những đứa trẻ lặng lẽ khóc khi Ni-cô-la gói những thứ đồ đạc nghèo nàn của cậu trong khi ông Bavran đang chờ đưa cậu sang nhà gia đình Hans một người làm lưới. Đứa trẻ mồ côi đã lấy ra từ trong chiếc túi của mình ra những món quà thô sơ cậu đã làm và khi nhìn thấy lũ trẻ vui sướng với những món quà tặng, cậu hạnh phúc đến nỗi không còn muốn khóc nữa. Một cảm giác ấm áp lan tỏa trong trái tim cậu bé khi cậu nhìn thấy những khuôn mặt hạnh phúc của họ và nghe thấy tiếng reo vui cám ơn của họ.
"Giáng Sinh năm sau anh sẽ làm cho các em những món đồ chơi đẹp hơn" Ni-cô-la nói với giọng quả quyết. "Các em hãy chờ xem nhé"

Với lời hứa hẹn đó, Ni-cô-la giờ đây đã 6 tuổi, dũng cảm từ biệt họ, dáng dấp bé nhỏ quay đi từ biệt khung cảnh hạnh phúc và chuẩn bị đối diện với hòan cảnh chưa biết ra sao của năm sắp tới với gia đình mới. Khuôn mặt của cậu bé buồn xo, tuy nhiên đôi mắt màu xanh trong sáng vẫn ấm áp với những ý nghĩ hạnh phúc mà cậu vừa để lại sau lưng.
"Tốt thôi" cậu nghĩ về mình khi họ đến gần ngôi nhà của người đan lưới: "Có thể năm đứa trẻ ở đây cũng sẽ tử tế với mình như gia đình Bavran và mình có thề làm những đồ chơi cho chúng. Giáng Sinh có lẽ là lúc hạnh phúc của mình ngay cả khi đó là ngày mình phải dời đi.
Chương ba
Cuộc đua xe trượt tuyết

Tại ngôi nhà của người làm lưới, hầu hết những buổi chiều mùa đông bọn trẻ học cách quấn và gỡ rối đống dây, vá những chiếc lưới đơn giản. Ni-cô-la khám phá ra một cách tách những sợi tơ của cây gai dầu màu vàng cậu có thể làm được mái tóc giống như thật cho những con búp bê bằng gỗ mà cậu thường đẽo gọt khi rảnh rỗi. Khi cậu từ giã họ vào cuối năm, năm đứa trẻ nhà làm lưới đã tìm thấy năm món đồ chơi nhỏ đang nằm chờ chúng trên chiếc lò sưởi. Ni-cô-la cũng không quên lời hứa của cậu với ba đứa trẻ nhà Bavran, nên cậu làm một chuyến đi đặc biệt đến ngôi nhà của họ vào buổi sáng Giáng Sinh hôm ấy với những quà tặng

Khi nhiều năm trôi qua, kỹ năng của Ni-cô-la ngày càng tăng lên, với con dao của người cha. Và tất cả những đứa trẻ đều trông đợi một món quà của Ni-cô-la vào ngày Giáng sinh. Không một đứa trẻ nào bị thất vọng, bởi vì nhà điêu khắc bé nhỏ ấy luôn luôn biết rõ điều mà mỗi đứa trẻ ao ước.
Chỉ còn một tuần nữa là Giáng Sinh. Ni-cô-la_ giờ đây đã mười bốn tuổi_đến sân trường nhìn thấy tất cả những bạn bè trong nhóm đang trò chuyện thật sôi nổi.
"Có chuyện gì thế?"
"Sắp có một cuộc đua xe trượt tuyết vào sáng ngày Giáng Sinh" Ốt-tô nói. "Xuất phát từ cổng nhà vị điền chủ trên đỉnh đồi và đích là cây thông lớn ở phía bên kia nhà ông ấy"
"Còn giải thưởng" Han ngắt lời, "là một chiếc xe trượt mới với phụ tùng bằng kim lọai"
"Ni-cô-la, cậu sẽ tham gia chứ? Xe trượt của cậu cũng không tồi mà, cho dù cậu..."
"Sụyt, Jan", một giọng khác thì thầm.
"Thật không hay khi nhắc Ni-cô-la nhớ lại rằng cậu ấy đã phải tự làm chiếc xe trượt tuyết trong khi cha chúng mình làm cho mình"
Nhưng Ni-cô-la không lắng nghe cuộc nói chuyện. Cậu suy nghĩ một cách chóng vánh. Cuối cùng cậu quay sang mọi người và hỏi :"Khi nào cuộc đua bắt đầu?"
"Đúng 9 giờ vào sáng ngày Giáng sinh"
Ni-cô-la lắc đầu một cách lưỡng lự. "Tớ không biết tớ có thể đua được không" Cậu nói chầm chậm. Cậu đang nghĩ đến cái tủ đầy ắp đồ chơi mà cậu sắp sửa phân phát cho tất cả các trẻ em vào sáng ngày Giáng sinh, đặc biệt là một cái cho Elsa, con gái người đốn củi, cô bé sống ở bên ngoài khu làng
"Có lẽ nếu mình thức dậy thật sớm và thật vội vã" Ni-cô-la nói với chính mình, lúc đó cậu chợt nhận ra đường đua sẽ đi ngang qua ngay ngôi nhà của Elsa. Con búp bê sẽ được thả rơi trong vài giây, cho phép cậu bé tiếp tục đua mà không mất chút thời gian nào.
"Tôi sẽ có mặt ở đó Tôi sẽ có mặt ở đó! Đúng 9 giờ và tốt hơn là các bạn hãy đề phòng mất cái giải thưởng đấy!" Cậu la lên một cách khoái trá. Buổi sáng ngày Giáng sinh bầu trời sáng và đầy nắng, đầy ắp những bông tuyết tươi đẹp. Ni-cô-la đã thức dậy trước khi mặt trời mọc, và như thường lệ cậu đặt những đồ chơi trước cửa của mọi căn nhà. Khi bọn trẻ bắt đầu lên đường với những chiếc xe trượt của chúng chuẩn bị cho cuộc đua, toàn bộ dân làng theo sau để xem cuộc đua một cách đầy hào hứng. Nhưng không có một dấu hiệu nào của Ni-cô-la.
Thật không may, một trong những bánh lăn bằng gỗ của chiếc xe trượt đã bị gãy dưới sức căng của bao đồ chơi nặng. Khi cậu bé tuyệt vọng đang cố buộc lại bằng sợi dây, cậu nghe thấy âm thanh của chiếc kèn vang lên từ trên đỉnh ngọn đồi ngay nhà vị điền chủ. Cuộc đua đã bắt đầu. Ni-cô-la vô cùng tuyệt vọng bởi vì cậu biết mình đã lỡ một cơ hội giành được chiếc xe trượt tuyết mới, nhưng dù sao cậu cũng phải đi ngang qua ngôi nhà của người đốn củi đề phát quà cho Elsa, cậu quay lại dựng chiếc xe trượt méo mó lên và lao về phía đỉnh đồi. Khi cậu chạm đến điềm xuất phát, Ni-cô-la nhìn thấy bạn cậu đang tăng tốc ở ngoài xa, trông giống như một đốm đen nhỏ.
"Đi nào Ni-cô-la" dân làng gọi, "chúng ta sẽ đẩy cho cháu khởi động. Một, hai, ba. Nào đi"
Ni-cô-la bay xuống ngọc đồi, mặt cậu buốt vì gió, cậu trượt mỗi lúc một nhanh, bánh lăn bằng gỗ hầu như không chạm vào nền tuyết cứng. Cái đốm đen đã to dần và Ni-cô-la biết cậu sẽ bắt kịp những đứa trẻ khác. Lũ trẻ hiện ra càng lúc càng lúc càng to dần đến khi Ni-cô-la gần như ngã ra khỏi chiếc xe chúng thật sự kinh ngạc. Chúng đã dừng lại và đợi cậu ngay trước nhà của người đốn củi.

"Nhanh lên Ni-cô-la" Jô bé nhỏ động viên "Chúng tớ đã chờ cậu trên đỉnh đồi, nhưng ông điền chủ nóng ruột nên thổi còi bắt chúng tớ xuất phát. Cậu biết là chúng tớ sẽ chờ cậu nếu có thể"
"Đúng thế , Ốt-tô hét lên "bây giờ đi đến thả con búp bê đó trước cửa nhà Elsa, nào đi! Từ bây giờ chúng tớ sẽ đợi cậu! Trước hết phải cố vì một chiếc xe trượt mới "
Với một tiếng hò ồn ả, hai mươi đứa trẻ la lên và cuộc đua lại tiếp tục trên thung lũng đóng băng xuyên qua những quãng đường đất họ phải xách chiếc xe trượt lên, ngoằn ngòeo dưới những hàng cây và một đọan dài khó khăn gắng sức trèo lên đồi phía sau nhà vị điền chủ. Ni-cô-la chỉ còn thấy một đứa trẻ phía trước mình khi cây thông lớn xuất hiện trong tầm mắt.
Giờ đây cậu đang băn khoăn xem thử cần bao nhiêu tiền cho chiếc xe trượt mới để đi phân phát những món quà Giáng sinh. Ni-cô-la trượt nhanh đến nỗi mà cậu nghĩ rằng trong giây lát cậu sẽ xuyên qua cây thông tách nó ra làm đôi, nhưng ngay lúc ấy cậu lái chiếc xe sang một bên và nhảy ra. Khi cậu tháo chiếc mũ len ra, cậu nghe những tiếng reo hò của dân làng. Cậu đã thắng cuộc đua. Điều ấy giống như một giấc mơ đã trở thành sự thật.
Tất cả những đứa trẻ tháp tùng Ni-cô-la về nhà trên chiếc xe trượt tuyết mới. Mỗi bà mẹ, mỗi người cha tay họ đi qua đều vẫy tay, mỉm cười đầy tự hào sung sướng như thể con của họ đọat giải.
Chương bốn
Buổi tối trước đêm Giáng Sinh

Sau khi dân làng giải tán về nhà, Ni-cô-la dừng lại ngay trước cửa ngôi nhà nơi cậu đã sống năm trước. Cậu thấy bên cạnh mình người đàn ông gầy gò ảm đạm, như thể chẳng bao giờ có được nụ cười trong đời ông ta. Đó là Bertram Marsden, người khắc gỗ trong làng, người mà tất cả những đứa trẻ đều gọi là "ông khùng Marsden" bởi vì ông sống một mình, hiếm khi trò chuyện với ai, lại hay rượt đuổi những đứa trẻ ra khỏi cửa với cái nhìn đe dọa và những lời nói cục cằn.

"Chắc mày đã quên mất là hôm nay mày dời đến nhà tao?" Marsden hỏi một cách thô lỗ.
Ni-cô-la ngước lên. Ơ không, cậu không quên, và cậu biết rất rõ vì sao Marsden đề nghị nhận cậu. Lý do duy nhất ông quyết tâm, thậm chí nôn nóng, nuôi nấng bảo bọc Ni-cô-la bởi vì hầu hết năm năm nay ông đã theo dõi công việc mà cậu đã làm với con dao cũ, ông nhận ra rằng Ni-cô-la sẽ là người tập sự giỏi và ít tốn kém cho ông.

Một lần nữa, Ni-cô-la gói ghém những đồ đạc ít ỏi lên trên chiếc xe trượt mới, nói lời tạm biệt với gia đình cậu sắp từ giã, và theo về ngôi nhà tiều tụy của ông khùng Marsden ở ngoài rìa làng.
Khi bước vào ngôi nhà, Ni-cô-la bước ngay vào trong gian làm việc chính của người thợ khắc gỗ. Ở đây cậu nhìn thấy chiếc ghế dài, bàn làm việc, những dụng cụ của ông và một số gỗ đã được phân lọai
Marsden chỉ cái cửa trong góc và nói: "Mày có thể cất những đồ đạc trong đó".

Ni-cô-la vẫn đứng yên giữa căn phòng hỗn độn, nhìn quanh mất hết tinh thần.
"Có một cái giường để mày ngủ. Tốt hơn là mày cất chiếc xe trượt xinh đẹp kia đi cho. Chúng ta không có thì giờ mà nô đùa trên tuyết. Thôi nào Ni-cô-la, đừng có đứng trố mắt ra như thế. Cất mọi thứ của mày đi, ở đây mày còn phải học nhiều. Tao sẽ làm cho mày trở thành một người thợ mộc giỏi. Không còn thì giờ cho những con búp bê ngốc nghếch và những đồ chơi bằng gỗ nữa đâu. Mày sẽ phải kiếm sống nuôi thân. Ồ nhân tiện mày cũng nói cái lũ trẻ vẫn lẽo đẽo theo mày tránh xa nơi này ra, mày có hiều tao nói gì không hở thằng nhóc?
Ni-cô-la cúi đầu lặng lẽ làm công việc cất đặt những thứ đồ đạc của mình.
Từ đó, Ni-cô-la bắt đầu làm việc với lão thợ khắc già điên khùng và nhận ra rằng con dao cha cậu để lại là một thứ dụng cụ thô thiển không làm sao có thể so sánh với những con dao và những cái đục bén ngót xinh đẹp mà Marsden đang dùng. Cậu học việc hàng giờ liền, còng lưng trên chiếc ghế dài bên cạnh người thầy của mình, kiên nhẫn với một mẫu gỗ đến khi nó mỏng như một miếng gương. Ni-cô-la rất buồn vì không thể quen với sự cô đơn khủng khiếp trong ngôi nhà này và mong nhớ những ngày sống cùng những bạn bè thân thiết đầy ắp những tiếng cười xung quanh. Sau nhiều tháng trôi qua, để cho Marsden không nhận thấy, Ni-cô-la dần dần lau chùi và đánh bóng ngôi nhà trong chừng mực mà ông chủ có thể tha thứ được.
Một đêm nọ khi Marsden ngồi bên bếp lửa, lặng lẽ hút thuốc với chiếc tẩu dài cong của ông, ông nhận thấy Ni-cô-la vẫn khom lưng mê mải làm công việc gì đó.
"Lại đây chú bé" ông nói với cái giọng cộc lốc nhưng có vẻ tử tế "Tao không phải là một ông thầy khắc nghiệt đến nỗi bắt mày làm việc cả ngày lẫn đêm như thế. Mày đang làm gì thế hử. Sao không đi ngủ đi?
"Đó chỉ là một miếng gỗ nhỏ bác ném đi thôi mà" Ni-cô-la vội nói, "Cháu đang cố làm một bản sao chiếc ghế mà bác làm hôm nay, nhưng chỉ là một cái ghế nhỏ_ một món đồ chơi". Cậu bé kết thúc và bỗng hoảng sợ, bởi vì cậu biết rất rõ rằng chữ "đồ chơi" đối với ông già Marsden là ám chỉ đến bọn trẻ. Vì một vài lý do lạ lùng nào đó mà khi nói đến bọn trẻ với sự có mặt của ông là ông rơi ngay vào cơn thịnh nộ dữ dội.

Tuy nhiên, đêm nay ông lại tỏ vẻ bằng lòng với cái nhìn buồn bã: "Để tao xem thử. Hừm, cũng không đến nỗi tồi đấy, nhưng chỗ gồ lên mặt ghế bên này to hơn bên kia. Đây này, đưa tao cái con dao nhỏ". Ni-cô-la vội vàng đưa cho ông con dao nhỏ và nhìn người thợ già điêu luyện khéo léo chữa lại cái chỗ vụng về ấy một cách đáng khâm phục.
"Đấy" cuối cùng Marsden nói và đưa cái ghế nhỏ ra xa để xem xét, "phải làm như thế mới được"
Thế rồi, thay vì đưa chiếc ghế nhỏ cho Ni-cô-la, người đang mong đợi nó, ông vẫn giữ nó trong tay với một ánh mắt già nua buồn vời vợi khi ông nhớ đến những món đồ chơi ông đã làm cho hai đứa con trai của ông cách đây nhiều năm. Một nụ cười nở dần trên khuôn mặt già nua mệt mỏi làm Ni-cô-la chớp mắt nhìn. Phải, một nụ cười thật sự đang kéo xếch hai khóe miệng nghiêm nghị mà nhiều năm nay vẫn trễ xuống.
Marsden ngước lên và nhìn vào khuôn mặt ngây thơ với đôi mắt xanh của Ni-co-la.
"Cháu là một cậu bé ngoan, Ni-cô-la ạ, và.." ông nói gần như e thẹn, bởi vì không dễ dàng gì khi một người đàn ông thô lỗ lại thay đổi quá mau chóng như vậy, "Ta nghĩ, ta sẽ giúp cháu làm những món đồ nhỏ bé này. Chúng ta sẽ cùng làm trong những buổi chiều mùa đông dài này, phải không Ni-cô-la? Cháu có thể phân phát chúng vào ngày Giáng sinh trên chiếc xe trượt tuyết xinh đẹp của cháu. Có lẽ, đến khi ấy cháu có thể thích ở lại và sống với ta trong năm tới". Ông già nói thêm với một giọng nhẹ nhàng như thể nài nỉ.
Ông nắm chặt lấy cánh tay Ni-cô-la gần như dữ dội, một vẻ thanh thản dần dần hiện ra trên khuôn mặt của ông già cô đơn khi cậu bé trả lời đơn giản: "Vâng, dĩ nhiên rồi thưa thầy, con sẽ ở lại đây chừng nào thầy muốn"
Từ đó, mỗi buổi chiều mùa đông, người ta thấy hai mái đầu cắm cúi trên chiếc ghế làm việc. Một mái tóc dầy màu xám, bờm xờm và một mái tóc mượt mà vàng óng của cậu bé. Họ tất bật suốt tuần trước lễ Giáng sinh và với sự giúp đỡ của ông già trong việc khắc chạm, Ni-cô-la có thể thêm vào những chi tiết sinh động trong những món đồ chơi và làm chúng đẹp hơn bất cứ đồ chơi nào cậu đã làm trước kia. Cậu sơn những khuôn mặt búp bê để đôi mắt chúng màu xanh, gò má và đôi môi màu hồng thắm như những cô gái nhỏ, những người chẳng bao lâu sẽ ôm siết chúng trong tay. Những bộ bàn ghế nhỏ cũng được đánh bóng bằng những màu nhẹ nhàng mà Marsden vẫn dùng cho những sản phẩm của ông; những chiếc xe trượt tuyết và những chiếc thuyền nhỏ bé cũng sáng lên với những màu sơn mới, màu đỏ, vàng, xanh lá cây và xanh da trời.
Chỉ còn hai đêm trước lễ Giáng sinh, mọi việc đều hoàn tất. Mặc dù mỗi món đồ chơi cho mỗi đứa trẻ trong làng đều được gói lại trên chiếc xe trượt tuyết mới, Ni-cô-la và ông già vẫn cứ làm việc trên chiếc ghế. Lần này, họ cố hoàn thành cái tủ mà một quí bà giàu có ở cách làng 20 dặm đã đặt làm. Khi cái tủ được làm xong thì đã quá muộn vào ngày trước đêm Giáng sinh : "Ta xin lỗi" ông già Marsden nói khi đọc những ý nghĩ của Ni-cô-la." Ngày mai con sẽ phải mang nó đi. Lẽ ra chính ta phải đi, nhưng bây giờ ta không còn khỏe như trước nữa. Chuyến đi mất cả ngày, vượt qua hai mươi dặm, rồi con phải ở lại đó vài giờ cho lũ ngựa nghỉ ngơi, và vượt qua hai mươi dặm trở về.
"Giá mà bà ấy không muốn chiếc tủ vào ngày mai" Ni-cô-la đáp
"Nhưng mà", người thầy trả lời," Chúng ta đã hứa rồi, nó phải được giao đúng hẹn. Còn những đồ chơi thì đâu có hứa hẹn bây giờ ?"
"Không, nhưng cháu phải tặng cho chúng nó" Ni-cô-la ngắt lời.
"Ta sắp nói đây cậu bé, chúng ta đâu có hứa hẹn với chúng vào ngày Giáng Sinh. Bây giờ những đứa trẻ đã đi ngủ sớm. Tại sao cháu lại không thể?"
"Đúng rồi, sao lại không!" Ni-cô-la nhảy cẫng và hét lên: "Danh sách của mình đâu rồi, xe trượt của mình đâu rồi. Mình phải vội vã lên mới được"
Bên ngoài, ngôi làng đang im ngủ. Không ai thấy một bóng dáng đơn độc, chùm kín để khỏi rét, đang lướt xe trượt từ nhà này đến nhà khác, để lại những món đồ chơi nhỏ trước cửa cho đến khi hết sạch. Khi Ni-cô-la đi xa đến ngôi nhà cuối cùng thì lúc đó đã ba giờ sáng ngày Lễ Giáng Sinh. Chiếc xe trượt của cậu sáng lên, nhưng đôi chân của cậu thì quá mệt mỏi vì lê bước trong tuyết dày, nhưng cậu rất hạnh phúc vì ngày hôm nay là Lễ Giáng sinh và một lần nữa cậu đã giữ được lời hứa với những đứa trẻ trong làng.

Dec 19, 2009

Hôn nhân và tan vỡ

ist2_82686-broken-wine-glass by you.


     “Không thể chịu nổi nữa rồi, lần này phải dứt khoát thôi, cố gắng nữa chỉ làm khổ nhau…” – Chị bạn chán nản than thở, trong giọng nói hòa lẫn cả sự bùi ngùi chua chát lẫn khẩu khí một mực cương quyết. Rồi để đúc kết lại tâm sự riêng lẫn ý muốn truyền đạt kinh nghiệm, chị khuyên tôi: “Em đừng có ham mà lấy chồng nhé, chán lắm. Nếu có lấy thì lấy cái người nó yêu mình ấy, đừng có mà lấy người mình yêu, KHỔ !!”  

     Vợ chồng chị lại bất hòa, không biết đây đã là lần thứ mấy trong tháng này. 

     2 năm – đó không thể nào là lý do cho một cuộc hôn nhân đang trên bờ vực tan vỡ, bởi đó không phải là khoảng thời gian đủ dài để bảo rằng đã chán nhau, rằng những mặn nồng của tình yêu lứa đôi đã hết để nhường chỗ cho những lo toan con đàn cháu đống hay nhiệt tình yêu thương của tuổi trẻ đã cạn. Nếu bảo rằng lý do để chia tay là không có gì gắn bó hay sẻ chia cũng không phải, bởi một đứa con thơ đã đủ là sợi dây ràng buộc mạnh mẽ nhất gắn bó hai người trong cả trách nghiệm lẫn lòng yêu thương và sự quan tâm. Nếu bảo rằng những khó khăn trong quan hệ gia đình, cảnh sống gò bó lễ nghi mẹ chồng nàng dâu đã giết chết tình yêu thì cũng không phải, vì hai vợ chồng họ ở riêng, hoàn toàn độc lập.

     Lý do để dẫn đến những cãi vả mỗi ngày chỉ là những vụn vặt trong cuộc sống, mà đằng sau tất cả những bất hòa nhỏ nhặt ấy để dẫn đến đổ vỡ quá lớn lao hôm nay là do: Cái TÔI cùa mỗi người đều quá lớn.

-          “Con nhỏ đồng nghiệp của em cưới sau em có mấy tháng thôi, mà nó vẫn được chồng cưng chiều hết mực, được tung tăng đi chơi đây đó như còn độc thân, sướng ơi là sướng, chứ đâu như em phải loanh quanh chồng con nhà cửa suốt ngày, khổ làm sao…” - chị vừa rửa chén vừa than thở.

-          Em so sánh thế là để trách móc anh dở hơn chồng người ta à?! em nghĩ lấy anh là thua thiệt à?! em hối hận khi lấy anh à?! Làm vợ là phải ở nhà chăm sóc chồng con nhà cửa là việc đúng rồi, là việc người vợ phải làm…

-          Anh thật là ích kỷ nhỏ nhen …

-          Cô thì không ích kỷ nhỏ nhen à, làm vợ mà còn ham chơi, thích bay nhảy…

-    Anh im đi !!

     Cứ thế, tiếng bấc quăng đi thì tiếng chì ném lại, lời lẽ mỗi lúc mỗi thêm nặng nề cay nghiệt, không còn ai muốn cố gắng kiềm giữ lời lẽ của mình lấy một chút nhẹ nhàng ngọt ngào để giữ hòa khí. Bản chất lời nói là để diễn tả suy nghĩ, tình cảm của người nói, đích đến của lời nói là trái tim của người nghe chứ đâu phải lỗ tai của người nghe. Thường thì những người đang trong cơn tức giận, chỉ muốn nói cho hả lòng hả dạ mình, hình như lời nói càng cay nghiệt bao nhiêu thì người ta trong cơn tức giận càng thấy nhẹ nhỏm hả hê bấy nhiêu. Vì thế, những người đang cãi vả nhau thì ít quan tâm đến mức độ nguy hại và tàn nhẫn của những lời xỉ vả mình dành cho đối phương, nhưng mỗi lời đối phương ném lại thì mình lại ghi nhớ chắc chắn, như khắc cốt ghi tâm, rằng “hắn dám nói mình là như thế đấy, được, thế thì chẳng còn tình nghĩa gì nữa nhé…” và thế là… đổ vỡ !!

      Người ta bảo: hôn nhân có cãi vả mới càng hắn bó, sau cãi vả sẽ càng thấu hiểu và yêu nhau hơn. Điều đó tưởng chừng như là chân lý, nhưng cũng không hẳn, khi mà những nguyên nhân của cãi vả lần trước cũng lại là nguyên nhân cho những cãi vả lần sau, khi mà tần suất của những lần cãi vả  bất hòa  càng lúc càng sít sao nhau hơn, khi mà những bất hòa vợ chồng đã không còn là chuyện “giải quyết nội bộ, vợ chồng đóng cửa bảo nhau” mà đã thành chuyện bàn cãi của người lớn, của những người ngồi sui với nhau, những người đã được lên chức ông chức bà đáng kính…  Đến mức ấy thì khó mà hàn gắn !!

       Lấy người mình yêu hay lấy người yêu mình?!

      Lời khuyên của chị bạn làm tôi thấy bối rối: “nếu có lấy thì lấy cái người yêu mình ấy, còn được cưng chiều, chứ lấy người mình yêu, khổ lắm. Hôn nhân là mồ chôn tình yêu!”

     Chẳng phải hôn nhân là sự kết hợp của hai thân xác mà tâm hồn của hai thân xác ấy đã thuộc về nhau sao?! Và tôi nhớ một câu nói nổi tiếng định nghĩa tình yêu hôn nhân rằng “yêu nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng”. Ta có thể nào cùng nhìn về một hướng với người ta không yêu mến? Tình yêu và sự chọn lựa, có thể nào mang ý nghĩa như nhau được?!
Người ta thường bảo rằng: Rất khó để lấy được người mình yêu.

     Còn bây giờ thì tôi lại nói rằng: Cũng chẳng kém khó để có thể yêu mãi được người mình lấy.
Có đâu ít những cặp ra tòa ly hôn chỉ vì cảm thấy không hợp nhau, cảm thấy người mình yêu và kết hôn đã thay đổi, không được như xưa, hoặc là “sống với nhau mới nhận ra bản chất thật”. Hôn nhân có tình yêu đấy, vẫn ly hôn. Vậy đâu là giải pháp, là quy tắc?

     Còn những cặp lấy nhau chỉ vì người kia quá yêu mình, cũng chẳng ít cặp ly hôn tan rã. Tình yêu có thể nảy sinh trong quá trình chung sống nếu tình yêu và tính cách, tâm hồn của người này đủ mạnh hoặc đủ thích hợp để làm lay động trái tim của người kia. Còn nếu như tình yêu không đủ mạnh mẽ, và tính cách tâm hồn của người này không thích hợp với người kia, thì cho dẫu sống ngàn năm với nhau thì cũng không thể làm 2 trái tim đập chung một nhịp. Tình cảm là cái tự nhiên, không thể nào ép buộc được, kể cả thời gian và khoảng cách cũng không bắt ép được. Nếu người ta tìm được một nửa tâm hồn mình với người khác sau khi đã kết hôn không tình yêu thì tan rã là điều không tránh khỏi !!

     Một cô bạn của tôi đã từng hí hửng khoe rằng: “ngày em với anh ấy ra phường làm giấy kết hôn cũng là ngày em làm sẵn đơn xin ly hôn đấy. Trong phòng ngủ em, ngoài treo hình cưới em còn đóng khung treo cả cái đơn ly hôn để sẵn, để nhắc nhở anh ấy phải cẩn thận, có lỗi với em là em ký đơn liền, khỏi bàn cãi…”

     Có lẽ nào hôn nhân lại song song với tan vỡ là thế?!

Dec 9, 2009

Khoảng vườn của tôi

080828155957-663-893 by you.


        Sáng nay mở cửa bước ra sân, nhìn ngắm cái chỗ mình ở, vừa thấy buồn cười vừa thấy yêu đến lạ !

      Phòng tôi nằm ở trên cùng của nhà – em gái thường gọi đùa đó là cái “chuồng cu” của tôi, mở cửa phòng bước ra là khoảng sân khá rộng mà ba tôi lấy làm nơi “nuôi trồng và chăn thả”. Tôi gọi là “nuôi trồng và chăn thả” là vì: thay vì sân thượng của nhà người ta thì trồng hoa, cây cảnh làm nơi thư giãn của người trong nhà, còn sân thượng nhà tôi thì, ngoài trồng hoa ba tôi còn trồng cả rau dưa củ quả! Hôm đầu, ba đem về một cây chanh và bảo rằng: “con gà cục tác lá chanh”, lá chanh ở TP này là hiếm lắm đấy, nhà mình trồng một cây để sau này có ăn thịt gà thì có miếng lá chanh cho nó thơm”. Thế là cây nông nghiệp đầu tiên đã có đất sống trong khu vườn nhỏ của tôi. Rồi cứ thế, nào là khổ qua, khế, lựu, ớt... cho đến rau thơm hành ngò cũng có mặt trong khoảng đất bé xíu, và cũng được ba tôi chăm chút chẳng thua gì hoa cảnh.

      Đó là xong cái phần nuôi trồng, giờ đến cái phần chăn thả.

      Ngày xưa cái khoảng sân này là nơi anh trai tôi dùng để nuôi chim bồ câu. Anh tôi đóng những cái chuồng to nhiều ngăn, nhiều cửa sổ, trang trí đẹp mắt để cho bồ câu ở. Bồ câu có thói quen tìm bạn trăm năm và tạo thành cặp (chẳng thế mà người ta thường lấy hình ảnh cặp chim bồ câu trắng để tượng trưng cho Tình Yêu đôi lứa mà). Những con chim bồ câu anh tôi nuôi rất thông minh, chúng bay đi và dụ về rất nhiều nàng bồ câu của những nhà khác. Chiều chiều cả trăm con bồ câu mập ú núc ních chen nhau đi lại trong sân và đậu trên bồn nước hoặc những cây cọc, trông yêu lắm! Đó là cái thời của 6 – 7 năm về trước. Thế rồi có dịch cúm gia cầm A-H5N1, Tổ Dân Phố đến nhà và yêu cầu nhà tôi giải tán đám bồ câu để tránh gây lây lan dịch. Ba và anh tôi tiếc lắm nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Bán chúng đi cho người ta làm thịt thì không đành lòng, thế là anh tôi phá hết chuồng không cho chúng ở, để mong chúng thấy không còn chỗ nương thân mà bay đi. Nhưng loài vật, suy ngẫm thì nhiều khi thấy chúng còn tình nghĩa nhiều hơn cả con người, những con bồ câu của anh tôi – dẫu mất chuồng, bỏ đói, hàng mấy đêm ngày liền đứng chịu mưa chịu sương ngoài trời vẫn không chịu bay đi, mãi cho đến khi có một con bỏ mạng vì tội quá trung thành, đàn bồ câu mới chịu rã đàn bay đi nơi khác 

        Những cặp chim bồ câu bơ vơ, giống như những đôi lứa bị cản ngăn xua đuổi. Tội nghiệp!

        Bây giờ hết dịch cúm, anh tôi lại đem về cho ba tôi mấy con chim cảnh hót hay để ba nuôi đỡ buồn. Nhà đã có hai chú chó, giờ lại thêm một anh gà Thái Lan khỏe gáy, nhiều khi tôi nói đùa với bạn bè: “Nuôi thêm con bò nữa là thành nông trại”

       Người ta bảo: môi trường sống ảnh hưởng nhiều đến tính cách tâm hồn một con người. Cái nông trại mà ba tôi tạo dựng có lẽ cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tính cách của tôi. Tâm hồn tôi giống như một khu vườn rậm lá, lắm hương thơm và ồn ào tiếng chim hót lẫn gà gáy - trộn lẫn thanh tao và trần tục, đậm đà và khô khốc. Không có thời gian để chăm chút cho cây cối rau củ gà qué chim chóc như ba tôi, nhưng tôi rất thích nghe tiếng gà gáy, nghe tiếng chim ríu rít chí chóe cãi nhau, và đôi lúc là nhìn những con chim sẻ ở đâu sà xuống mổ trộm những hạt thóc hạt gạo vương vãi và chú gà nhỏ thì lẫn thẫn đi lại trong sân. Một vùng trời bình yên !! Tâm hồn cũng bình yên !!

Nov 27, 2009

Người mẹ điên

( Một truyện ngắn Trung Quốc)



     Hai mươi ba năm trước , có một cô gái đầu bù tóc rối,  gặp ai cũng cười cười ngơ ngáo...

     Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

     Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ.Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền.Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.

       Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con.Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Đưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên.

     Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!".Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm.

     Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Đặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi. Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?".

       Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Đừng... đừng...". Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có kết quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?".

      Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại.

     Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài. Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra.

      Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa.

      Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi". Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không?


       Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào.

      Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.
Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...". Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này.

     Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!". Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.

     Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng. Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn".

     Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được..." Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Đánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..." Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Đừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...".

    Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Đấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!". "A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!". Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Đánh tôi, đánh tôi!".

      Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!".Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa.

     Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...". Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.

     Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.

      Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín.

     Đây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra". Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ.Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu.

      Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó.Đám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết. "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!". Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu.

      Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp. Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi.

     Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.

     27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.


     Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông.
Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được.


     Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!"
Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Đường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước.


      Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...


      Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề.Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..."


     Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.


     Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Đại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi.

     Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!".

Nov 18, 2009

Đôi mắt

CIMG3706-1.jpg be picture by xingxingudan_83

" Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời

Để nhìn đời và để làm duyên …"

     Cô bé 7 tuổi hồn nhiên cầm micro hát bài hát ấy giữa hội trường gần 40 người khách Singapore và vài người Việt. Những người nước ngoài không hiểu được ý nghĩa của bài hát, nếu họ hiểu, có lẽ họ sẽ không thể ngồi lắc lư người theo nhịp điệu nhịp nhàng của bài hát được, bởi vì … trên gương mặt xinh xắn của cô bé, dưới hàng mi dài cong vút, chỗ mà lẽ ra là hai con mắt đen nhánh trong veo lanh lợi thì lại là hai vật gì tròn tròn trăng trắng như hai viên bi chứ không phải là đôi mắt. Cô bé bị mù !!


      Dường như Tạo Hóa thích trêu ngươi con người, thích tạo ra những nghịch cảnh, khi mà những người sinh ra đã không có khả năng trông thấy, lại là những người sở hữu những đôi mắt đẹp nhất.

Những đứa trẻ khiếm thị ở Trường Mù Nguyễn Đình Chiểu – mặc dù sinh ra Tạo Hóa chỉ ban cho các em những đôi mắt đục một màu trắng nhưng tâm hồn thì lại trong veo. Mỗi ngày các em đến trường để học hát, múa, học chữ và quan trọng nhất là để có môi trường hòa nhập – những người bạn “như nhau” ! Những món giải trí giữa giờ chỉ là chiếc xích đu quay vòng tròn hay lúc lắc đong đưa, các em vừa đong đưa vừa hát to  “nào các bạn ơi lên tàu lửa chúng mình đi, đi đi khắp nơi xem cảnh đẹp quê ta …” !!

      Các em có cảm thấy chạnh lòng không ?!

      Khi tôi bảo một em nhỏ rằng cười tươi lên xinh lên để tôi chụp một tấm ảnh, nhưng tôi đứng xa xa  và em thì đang quay mặt sang hướng khác, thay vì lại gần dìu dắt cô bé thì cái con người vô duyên của tôi lại bảo : “con quay mặt về phía cô nè…” khiến cho cô bé thay vì quay sang trái lại quay sang phải, cô bé có biết tôi đứng ở đâu ?! 

      Em có cảm thấy tổn thương không ?!
 
mat2 by you.



       Người ta thường ít cảm thấy quý trọng những gì của mình mà vốn sinh ra đã có, và mọi người cũng có, vì nghĩ rằng nó là tầm thường quá, là lẽ hiển nhiên, là những gì tất yếu. Người ta thường chỉ quý trọng những gì người ta không có hoặc hiếm khi có được: một chiều cao lý tưởng, một dáng hình cân đối, một làn da trắng trẻo, một cái nhà cao tầng, một cái xe tay ga mắc tiền hay một cái iphone thời thượng… Có mấy ai nghĩ được rằng “ta hạnh phúc khi ta có đôi mắt trông thấy được, ta có tay để làm mọi việc và có chân để đi mọi nơi”?!  Hiếm hoi lắm …

“Mẹ cho em đôi mắt tuyệt vời
Giữa dòng đời nhìn rõ đục – trong …”

       Người ta thường mắng “có mắt như mù”, quả thật có những người như thế thật: Họ có thể nhìn thấy mọi thứ: một cô gái đẹp thoáng qua rất nhanh cũng vẫn kịp nghe tiếng mút chuột chọc ghẹo của họ, một ai đó vừa đánh rơi một vật giá trị họ cũng có thể nhanh chóng phát hiện và bỏ túi… vân vân và vân vân, nhưng lại không thể trông thấy một anh mù bán vé số đứng ở góc ngã tư Lê Đại Hành – 3/ 2 vào những buổi trưa để mà tránh anh. Họ ngang tàng dừng xịch xe ngay bên hông anh và bấm còi inh ỏi để anh lúng túng nép sát vô cột điện tránh, hơn là chậm chậm lách sang một bên tránh anh nếu không muốn mua.

      Nhiều lắm những con người có mắt to sáng nhưng không có khả năng nhìn rõ đục – trong, phải – trái …

      Sẽ thế nào khi một sáng ta thức dậy và phát hiện ta không còn trông thấy nữa?! Lúc ấy ta sẽ biết điều gì là quan trọng nhất !!!

Nov 2, 2009

Ngày này năm ngoái

z6728451

      Hôm nay là tròn một năm kể từ ngày ba tôi nhập viện vì một trận bệnh thập tử nhất sinh, vật lộn giữa ranh giới sự sống và cái chết. Ba vật lộn để giành lại sự sống bởi ba tôi rất yêu đời và rất yêu cuộc sống, còn mẹ con chúng tôi thì vật lộn để giành ba lại. Vật lộn và giành giựt, thắng và thua. Thế mà đã một năm rồi đấy …

    Tôi nhớ chính xác cái ngày này, vì năm ngoái, vừa sau lễ “Kính nhớ tổ tiên” – một lễ quan trọng của người Công giáo – là ba tôi nhập viện luôn. Thông lệ hằng năm ở nhà thờ, vào ngày lễ này Linh mục sẽ thống kê số người “ra đi về với Chúa” trong một năm là bao nhiêu và những ai, năm ngoái gia đình chúng tôi đã nghĩ rằng ba sẽ là người tiên phong đứng đầu “danh sách đen” cho năm nay rồi ! Trước thì chúng tôi còn khấn nguyện cho ba chóng bình phục, sau với sự thất vọng và bất lực của bác sĩ, chúng tôi chỉ còn biết khấn nguyện cho ba – nếu Chúa muốn ba tôi ra đi – xin cho ba tôi được ra đi trong bình yên mà không đau đớn nữa. Tuy chỉ còn thấy hi vọng là một tia nhỏ mong manh thoáng có thoáng mất trong trái tim mỗi người, chập chờn như đèn dầu leo lét có lúc tưởng đã tắt hẳn, nhưng chúng tôi vẫn không khuất phục sự buông xuôi của bác sĩ. Những bác sĩ, vì đó không phải là người thân của họ nên họ không hiểu, họ dễ dàng khuất phục những cái kết quả xét nghiệm và phim chụp vớ vẩn. Họ tin tưởng tuyệt đối vào kiến thức họ học được mà không biết rằng: Chúa mà cũng có lúc phải mềm lòng !

     Cái cảm giác sắp mất đi một người thân, đến nay nghĩ lại tôi vẫn còn rùng mình ớn lạnh: hoang mang cực độ, chông chênh muốn ngã và nhất là cảm giác đôi tay như muốn nắm lấy cái vật gì đó đang dần dần rời xa mình mà giật lại… Tất cả những kỷ niệm tuổi thơ lại cứ trôi về không ngừng: từ những phong bao lì xì đỏ được nhận Đêm Giao Thừa từ ba mẹ, những lời chúc bình dị: chăm ngoan học giỏi; rồi hình ảnh ba chở đến trường trên chiếc xe đạp chở muối những ngày đầu đi học để quen đường sau này tự đi bộ một mình; rồi những đòn roi quở mắng cho những lần trốn học đi chơi hoặc vì giận ba mẹ mà đi chơi suốt cả ngày không về… Bao nhiêu là tội, bao nhiêu là roi đòn, và bây giờ là bấy nhiêu hối tiếc…

      Làm con, thì chỉ biết giữ những kỷ niệm tội lỗi của mình, còn trong trái tim ba mẹ thì chỉ giữ toàn là những kỷ niệm tốt đẹp về con …

      Tôi chắc chắn rằng ba mẹ tôi không còn nhớ đến những lần tôi cố tình hất bể chén dĩa khi bị quở mắng vì tội gì đó; không còn nhớ đến những giậm giật quét nhà dọn dẹp mà cố tình khua cho lớn tiếng để ba mẹ biết tôi đang giận lắm; không nhớ đến những cái tát cho nên thân nên người với đứa con gái “bướng không chịu nổi”… Nhưng tôi chắc chắn rằng ba mẹ tôi có thể kể ra hàng đống hàng đống những hình ảnh bé nhỏ của tôi từ ngày thơ ấu, những hạnh phúc tràn trề khi thấy tôi biết lật, biết bò rồi chập chững biết đi; những phần thưởng và bằng khen từ nhà trường, những lời khen tốt đẹp trong Sổ Liên Lạc. Có lẽ tôi đã quên hầu hết những biến cố tốt đẹp của đời mình nhưng ba mẹ tôi thì có thể nhắc lại tất cả chúng…
 
      Thế mà đã một năm rồi đấy … Ba tôi sống thêm một năm !
         Đã từng đọc ở đâu câu này: “Với người trẻ: một ngày qua mau và một năm thì qua lâu. Với người già: một ngày qua thật lâu nhưng một năm thật ngắn ngủi”. 

       Mong sao đến năm sau tôi lại ngồi viết Nhật ký blog thế này, viết lên những cảm xúc hạnh phúc vì còn đủ Cha mẹ, và tôi sẽ lại viết câu: “Thế mà đã một năm rồi đấy … Ba tôi lại sống thêm một năm !

       Và năm sau, năm sau nữa tôi vẫn viết câu ấy.

Oct 31, 2009

Phúc - Họa

small_1203697761_nv

      Chúa bảo rằng: “ Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó. Phúc thay ai hiền lành. Phúc thay ai sầu khổ ….” 

      Xưa nay chỉ nghe người ta bảo với nhau rằng: “Anh thật có phúc vì được giàu sang, có phúc vì được thăng chức tăng lương, thật có phúc vì được vợ đẹp con khôn….” Biết bao những cái tốt đẹp mà mọi người mong được có, mà ai có được thì người ta bảo đấy là có phúc. Chưa thấy ai chúc mừng ai vì có phúc được nghèo khó hay sầu khổ, hiền lành. “Hiền quá hóa ngu!” ! – người ta thường bảo với nhau như vậy. “Tâm hồn nghèo khó” ư? – không bị họ chê là dại, thì cũng dè bỉu: “một lần khiêm tốn bằng bốn lần tự kiêu”. Thế thì “Sầu khổ” lại càng là điều không ai muốn.

     Chúa bảo rằng: “Khốn khổ thay cho anh là kẻ giàu có”. Người giàu có xưa nay chỉ được người ta khen, được người ta xuýt xoa mà bảo rằng “sao mà sung sướng thế, sao mà giàu sang thế” chứ nào có ai tặc lưỡi mà bảo rằng “tội nghiệp cho anh vì anh giàu có” !

     Trong nhận thức của mọi người hẳn nhiện tự lúc nào đã tồn tại 2 khái niệm đơn giản: “Phúc” – là những thứ mọi người mong có được, và “Họa” – là những điều mọi người chẳng ai mong đợi.

     Không phải Chúa muốn dạy con người đi ngược với những cảm xúc tự nhiên của người ta ở đời, nhưng tôi biết, cái “Phúc” mà Chúa muốn nói đến là “Phúc Đức”, còn cái Phúc mà con người thường dễ dàng cảm nhận được trong đời sống, cũng như mong mỏi có được, đó là “Phúc Lộc”. Phúc Lôc thì chỉ tồn tại được ở đời này thôi, phù du như cánh bèo trôi, thoáng được thoáng mất, mà một sự thật phũ phàng là người thường có được nhiều phúc lộc lại đánh rơi đi nhiều đạo đức hơn người khác. Chẳng thế mà Chúa bảo “Người giàu có khó vào Nước Trời”…

     Chữ Phúc và chữ Họa là hai phạm trù trái ngược nhau, mà kỳ lạ sao khi viết sang chữ Hán lại có nhiều điểm tương đồng. Trong chữ Phúc () là có chữ “điền” ý chỉ đất đai, có chữ “nhất” ý chỉ trên nhất, trước nhất, có chữ “khẩu” là lời nói. Thầy tôi ngày xưa có lần bảo rằng: “ Người có đất đai có của cải thì lời nói cũng có giá trị nhất. Ấy là tiền của và quyền lực thường đi song song với nhau. Và người đời thường gọi người ấy là người có “Phúc” – đó là ý nghĩa cấu tạo của chữ Phúc.

     Còn chữ Họa () cũng có chữ “khẩu” – nghĩa là lời nói hay cái miệng, rồi lại có chữ “nội” nghĩa là bên trong, sâu xa trong chữ nội có bao hàm cả chữ “nhân” – con người. Tôi chưa bao giờ nghe thầy giải thích về chữ này, nhưng tôi nghĩ : Họa là bắt nguồn từ bản thân con người mà ra họa, tự bản thân con người tạo ra họa cho mình và cho mọi người, mà họa chủ yếu là từ do cái miệng. Nói một câu khiếm nhã trong ngày vui của người khác mà bị bài xích xỉ vả - đó là họa do cái miệng mà ra. Lớn tiếng khoe khoang tiền của để bị đạo chích viếng nhà – đó cũng là họa do cái miệng. Chặt phá rừng bừa bãi và săn bắt thú rừng  vô tội vạ để dẫn đến lũ lụt, voi dữ xuống phá bản làng – đó cũng là cái họa do con người tự tạo ra và làm ảnh hưởng người khác. Con vật có tội tình gì đâu?!

      Có ai mong cho người thân mình bớt có phúc không? Thế mà tôi lại đang mong điều ấy. Thấy anh trai mình càng ngày công việc càng thuận lợi, trong lòng chưa kịp vui thì lại thấy nhiều chán nản. Nhà cửa đất đai mua thêm, nhân công thì cứ tăng lên mãi, nhưng tần suất về thăm nhà thăm ba mẹ thì cứ giảm dần rồi cuối cùng là cắt giảm hẳn như các công ty cắt giảm biên chế. Trước kia, mỗi lần chở các cháu về thăm ông bà nội, bao giờ mẹ tôi cho thứ gì anh chị cũng rất vui vẻ nhận, khi thì hộp bánh bịch kẹo, hay con cá tươi hoặc tô thịt kho ngon lành. Bây giờ, không thứ gì cho mà anh chị nhận. Các cháu cũng quên mất mặt ông bà và các cô chú, đến nhà rồi mà nhất định không chịu vào. Mẹ tôi thường nói đỡ các cháu: “nó lớn rồi, thấy các cô tụi nó mắc cỡ không dám vào ấy mà…” Có lần, mẹ tôi cho thằng cháu trái hồng, nó nhất định không chịu nhận. Ba nó phải quát: “cầm lấy” nó mới chìa tay nhận. Ra đến cửa, nó lén để tay xuống người rồi thả rơi trái hồng cho nó lăn sang tận nhà hàng xóm. Đôi mắt của đứa bé gái nhà hàng xóm sáng lên nhìn chăm chăm trái hồng đang lăn về phía mình mà còn lấm lét chưa dám nhặt. Tôi phải quay mặt đi để cho nó yên tâm rằng hành động “tội lỗi” của nó sẽ không ai phát hiện nếu nó muốn nhặt !

      Muối là để ướp, để muối thứ khác, nhưng nếu muối mà nhạt đi rồi thì lấy gì mà muối cho nó mặn trở lại?

      Đạo đức cũng như muối vậy thôi. Ba mẹ là muối men đạo đức cho con cái, ba mẹ mà đã nhạt nhẽo đạo đời rồi, thì lấy gì mà ướp cho con cái nên người đạo đức ?!

Oct 25, 2009

Phận bạc

        Tôi không tin lắm vào tử vi và tướng số, hoặc dự đoán kiếp người qua Cung Hoàng Đạo.
Nhưng tôi tin vào cái gọi là “số phận”, như người ta thường nói vui rằng: “giày dép còn có số, huống chi là con người …”


       Công ty tôi nằm ở quận 5. Hàng ngày, tôi gửi xe ở Trường Mù Nguyễn Đình Chiểu (trường dành cho trẻ khiếm thị), cách công ty vài trăm mét, sáng sáng chiều chiều ngày 2 bận, lại đi bộ một đoạn trên đường Nguyễn Chí Thanh với 2 hàng cây cao vút 2 bên đường để vào công ty. 

       Trên đoạn đường rất ngắn này có rất nhiều những cô gái bán má hồng, mà những người đồng nghiệp trong công ty gọi nôm na họ là: “Gà”. Tôi không biết cái tên ngắn ngủn ấy có ý nghĩa liên hệ như thế nào với cách kiếm đồng tiền của họ, chỉ biết là khi mọi người  nói về những cô gái với cái từ này, thấy dường như trong lời nói bao giờ cũng có đan xen ít nhiều sự rẻ rúng.

       Người ta thường quan niệm rằng: người đạo đức là người rất ghét người tội lỗi, càng ghét người tội lỗi bao nhiêu càng chứng tỏ mình đạo đức bấy nhiêu. Người ta thường nhầm lẫn, hoặc giả vô tình hay cố ý mà quên mất rằng tội lỗi và người phạm tội là 2 phạm trù khác nhau, bản chất tội lỗi thì đúng là xấu xa và đáng ghét, nhưng người phạm tội thì không hẳn. Trong cuộc đời đâu thiếu những sự lỡ chân mà ngã ! 

        Thậm chí có thể là do số phận - phận bạc, không được như người khác...


congvinhla2

      Tôi cũng đã từng có lúc sống dưới cái lối suy nghĩ rất tầm thường và sai lầm ấy.

      Các cô gái bán má hồng – tôi đã nghe từ lâu. Trong suy nghĩ của tôi tồn tại một hình ảnh lối mòn cũ kĩ, rằng họ là những cô gái thường mặc áo rộng cổ và ôm sát người, thường đứng ở đâu đó trong các chỗ tối hoặc góc đường khi trời đã về khuya. Nhưng các cô gái ở đoạn đường Nguyễn Chí Thanh thì khác, họ luôn luôn mặc áo sơ mi rất kín đáo, tóc dài dáng thướt tha và chạy xe tay ga trông như các cô nàng làm việc công sở. Ngay cả khi họ đứng ở một ngã tư, trông cũng vẫn như một nữ sinh hay một cô gái nghiêm túc đang chuẩn bị đi làm ở một công ty nào đó. Chẳng thế mà đã rất nhiều lần khi đi bộ, tôi đã bị một số anh hay ông “nhận nhầm người quen cũ”. Thời gian đầu cái bộ óc vốn hơi bị thiếu thông minh của tôi chưa kịp hiểu, tôi tưởng rằng họ hỏi tôi có muốn đi xe ôm không? (vì họ hỏi: “đi không em” mà !!). Để trả lời cho những anh/ ông xe ôm này, tôi luôn giơ cho họ xem chìa khóa xe tôi cầm lúc lắc trên tay, để họ hiểu rằng tôi có xe và đang cần đi bộ, chứ không phải vì tiếc tiền đi xe ôm mà phải đi bộ. 

      Sau này khi hiểu được sự nhầm lẫn ấy là do điều gì, trong lòng tôi, không cố ý mà lại len lõi ít nhiều sự bực dọc xen lẫn rẻ rúng những con người mà họ phải chua chát bao nhiêu để bị người đời chà đạp. Một kiếp người – ai chẳng muốn mình được an vui và được mọi người trân trọng. Thế mà tôi không hiểu. Tôi bực dọc vì cái cách họ ăn mặc quá nghiêm trang đẹp đẽ để mà những gã đàn ông có thể đánh đồng tôi với họ. Tôi rẻ rúng xem thường cái cách mà họ kiếm đồng tiền để sống, để trang trải mà nuôi thân và có thể còn phải nuôi cả một gia đình hàng mấy miệng ăn phía sau…
Một ngày, vào giờ nghỉ giải lao buổi trưa, tôi vào Coopmart đối diện công ty để mua ít thứ linh tinh. Trong này tôi gặp 2 cô gái mà tôi biết rõ họ là gái bán hương vì tôi mỗi ngày đều thấy họ đứng ở ngã tư từ sáng cho đến chiều, và chắc là cả đến tối. Không để ý lắm đến họ, tôi lướt qua và bước đến gian hàng mà mình cần để chọn chọn lựa lựa. Sau lưng tôi, 2 cô gái trò chuyện nho nhỏ. Một cô bảo: 

-          Mua ít thôi mày, bỏ bớt lại đi, tháng này phải nhịn nhiều hơn tháng trước. Tháng trước đã chưa có tiền gửi về cho thằng Út đóng học, bị thằng cha Hiệu Trưởng làm việc với phụ huynh rồi. Tháng này không gửi về nữa, nó chỉ có nước nghỉ học.

Cô kia đáp:

-          Mẹ...! học trường làng mà còn không đủ đóng học, thế còn đòi đưa nó lên đây học. Mày tưởng kiếm tiền triệu chắc?

     Tự nhiên tôi thấy món đồ đang cầm trên tay mình nặng lắm, chỉ muốn quăng đi, ngần ngừ không biết nên mua hay nên đặt trả lại lên kệ. 

     Đến lúc ra tính tiền, không hiểu sao tôi lại đứng xếp hàng thanh toán tiền ngay sau 2 cô gái ấy. Các quầy tính tiền khác cũng đã có người, vả lại tôi cũng không có ý định đổi sang xếp hàng chờ ở một quầy tính tiền khác, là vì tôi muốn xem 2 cô gái đã mua những gì…

Chỉ toàn là mì gói, nước lọc, ít rau củ và cả một vài nhu yếu phẩm không thể thiếu của con gái. Nếu đó không phải là những thứ con gái nhất nhất thiết phải mua thì chắc là họ cũng không mua – tôi nghĩ vậy. Cô nhân viên tính tiền liếc mắt trông ngang 2 cô gái rồi hỏi chỏng:

-          Thẻ khách hàng ?

-          Không có – một trong 2 cô cũng trả lời chỏng lọn không kém. 

     Cô nhân viên tính tiền vốn ngày thường dịu dàng niềm nở với khách là thế mà với 2 cô gái kia cũng tỏ ra không cần lịch sự. Cô ta nhận tiền của khách bằng thái độ miễn cưỡng và tôi thấy rõ cô ta rất rón rén, cầm tờ tiền chính xác chỉ bằng một ngón trỏ và ngón cái, cái cách mà khi ta nhặt một thứ rác dơ bẩn để bỏ vào sọt. Tiền nào mà chẳng là tiền, tiền nào mà chẳng phải là đổ công sức, mồ hôi ra để có ? Đồng tiền của 2 cô gái kia lại càng có giá trị hơn, vì họ có nó cay nghiệt hơn người khác. Họ phải đánh đổi nhiều thứ, cân nhắc nhiều lắm mới có thể đưa cho cô nhân viên kia tờ tiền đó. Tôi chỉ muốn bước đến, nắm lấy cái cổ áo sơ mi xanh thẳng thớm với cái dây đeo có gắn bảng tên của cô ta mà hét lên rằng: “Đồ tồi ! Cô không xứng đáng ngồi ở vị trí này, chỗ của cô là ở ngoài đường kia, chìa tay xin từng đồng, lúc đó cho cô hết hống hách đi”.  Nhưng tôi đã không làm thế, vì tôi ý thức rằng, trong con người tôi lúc nào đó cách đây ít phút thôi cũng có ít nhiều nét tương đồng với cô nhân viên ấy, chỉ là vì tôi không có điều kiện kiếp xúc với những cô gái bán hương thường xuyên như cô ta, nên tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ làm thế…

     Tôi trả lại toàn bộ những gì mình đã lựa trong Siêu thị và bước ra với lời giải thích: để quên bóp tiền !

Buon-oi-chao-mi-2

       Tôi vẫn đi bộ trên đoạn đường Nguyễn Chí Thanh để vào công ty sáng sáng chiều chiều ngày hai buổi. Tôi vẫn trông thấy những cô gái bán hương “cao cấp” đi xe tay ga lượn qua rồi lại vòng lại. Và tôi cũng thấy những cô gái nghèo nàn hơn, không có phương tiện tốt, không có nhan sắc đặc biệt, chỉ đứng ở ngã tư hàng giờ và đôi mắt chỉ sáng lên khi thấy một chiếc xe của một người đàn ông nào đó đi chậm lại chỗ họ. Niềm hi vọng của họ - tôi hiểu đó chính là niềm hi vọng của họ lặp đi lặp lại mỗi ngày và tôi không được xem thường nhân cách hay cái niềm hi vọng rất đỗi tủi hờn đó. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc tôi phải nhịn ăn nhịn mặc, nhịn những mong muốn cá nhân để có tiền đóng học cho em hay mua một cái áo mới cho mẹ. Khi người ta làm được điều gì đó bằng tiền một cách dễ dàng quá thì nó thật chẳng còn ý nghĩa hay giá trị gì nữa !

Và tôi còn phải học hỏi ở các cô gái ấy nhiều hơn …

Oct 20, 2009

Một lỗi lầm phải ân hận suốt đời

     Trong lúc loanh quanh trên mạng tìm kiếm một tấm hình về đôi mắt cho bài blog của mình, tôi đọc được câu chuyện này. Người đăng bài viết là một người bạn của nhân vật chính, nhận được email từ Singapore là nội dung câu chuyện này. 

     Thấy lòng mình nhiều chao đảo muốn sẻ chia, nên post luôn câu chuyện vào blog của mình như một sự nhắc nhở cho bản thân và cho bất cứ ai vô tình đi lạc vào đây hay có nhã ý ghé thăm.


Mẹ Tôi... 


       Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.

     Mẹ tôi làm nghề nấu ăn để nuôi tôi ăn học. Một lần bà đến trường để kiếm tôi làm tôi phát ngượng. Sao bà lại có thể làm như thế với tôi? Tôi lơ bà đi, ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến. Ngày hôm sau, một trong những đứa bạn học trong lớp la lên: “Ê, tao thấy rồi. Mẹ mày chỉ có một mắt!”.

    Tôi xấu hổ chỉ muốn chôn mình xuống đất. Tôi chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó đi học về tôi nói thẳng với bà: “Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười!”.

     Mẹ tôi không nói gì. Còn tôi, tôi chẳng để ý gì đến những lời nói đó, vì lúc ấy lòng tôi tràn đầy giận dữ. Tôi chẳng để ý gì đến cảm xúc của mẹ. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi nhà, không còn liên hệ gì với mẹ tôi. Vì thế tôi cố gắng học hành thật chăm chỉ, và sau cùng, tôi có được một học bổng để đi học ở Singapore.


    Sau đó, tôi lập gia đình, mua nhà và có mấy đứa con. Vợ tôi là con nhà gia thế, tôi giấu nàng về bà mẹ của mình, chỉ nói mình mồ côi từ nhỏ. Tôi hài lòng với cuộc sống, với vợ con và những tiện nghi vật chất tôi có được ở Singapore. Tôi mua cho mẹ một căn nhà nhỏ, thỉnh thoảng lén vợ gởi một ít tiền về biếu bà, tự nhủ thế là đầy đủ bổn phận. Tôi buộc mẹ không được liên hệ gì với tôi.
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ. Tôi vừa giận vừa lo vợ tôi biết chuyên, hét lên: “Sao bà dám đến đây làm con tôi sợ thế? Đi khỏi đây ngay!”. Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời “Ồ, xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ!” và lặng lẽ quay đi. Tôi không thèm liên lạc với bà trong suốt một thời gian dài. Hồi nhỏ, mẹ đã làm con bị chúng bạn trêu chọc nhục nhã, bây giờ mẹ còn định phá hỏng cuộc sống đang có của con hay sao?

mehien2 by you.

      Một hôm, nhận được một lá thư mời họp mặt của trường cũ gởi đến tận nhà, tôi nói dối vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua căn nhà của mẹ, vì tò mò hơn là muốn thăm mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó và do không có thân nhân, sở an sinh xã hội đã lo mai táng chu đáo.

     Tôi không nhỏ được lấy một giọt nước mắt. Họ trao lại cho tôi một lá thư mẹ để lại cho tôi:

Con yêu quý,

Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. Mẹ xin lỗi về việc đã dám qua Singapore bất ngờ và làm cho các cháu phải sợ hãi. Mẹ rất vui khi nghe nói con sắp về trường tham dự buổi họp mặt, nhưng mẹ sợ mẹ không bước nổi ra khỏi giường để đến đó nhìn con. Mẹ ân hận vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây.

Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn và hỏng mất một bên mắt. Mẹ không thể ngồi yên nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sĩ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc đó. Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh vì những gì mẹ đã làm được cho con. Con đã nhìn thấy cả một thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ…

Mẹ yêu con lắm,

Mẹ…”


        Bình luận: Có những thứ chúng ta làm hỏng thì làm lai, hôm nay không sửa chữa được thì mai, mốt, tháng sau, năm sau sửa vẫn được. Trong cuộc đời đâu thiếu những sự lỡ tay ! Hoặc nếu có đánh mất luôn ta vẫn có thể bỏ tiền ra mua lại cái khác.
Nhưng rất cần phải ghi nhớ rằng: có những thứ tiền không mua được và thời gian không thể hàn gắn được !!