Dec 30, 2010

Phó Thác ?!

photo
 

      Có một nhà leo núi, sau nhiều năm chuẩn bị đã bắt đầu thực hiện ước mơ là chinh phục một ngọn núi thật cao. Và vì muốn giành trọn vinh quang, ông đã ra đi một mình. Đêm xuống, để rút ngắn thời gian chinh phục đỉnh núi, ông quyết định tiếp tục leo lên... trong khi trời tối như mực, mây che cả trăng sao, đường đi thì khó thấy.


      Gần tới đỉnh, bị trượt chân, ông rơi thẳng xuống, ông chỉ còn mơ hồ thấy vài chấm đen, rồi bị khoảng không nuốt lấy. Khi cái chết gần kề, bỗng một cái gì giật mạnh làm ông suýt rách bụng: hoá ra đoạn dây quấn trên mình ông vướng vào mỏm đá, ông bị treo lơ lửng trong đêm đen và im lặng. Ông bị treo lơ lửng trong đêm đen bên vách núi. Tuyệt vọng, ông nắm chặt sợi dây và kêu: 

-         Lạy Chúa! Xin tới giúp con’’. 

Một giọng trầm ấm mạnh mẽ xé tan im lặng:

- Con muốn Ta làm gì cho con?

 -  Xin Chúa cứu con

 -  Con tin Cha có thể cứu con được ư ?  

-  Lạy Chúa, con tin chứ !

-  Nếu con tin, thì hãy cắt sợi dây tay con đang nắm , buông tay rơi xuống đi.


      Nghe đến đó, nhà leo núi tái mặt, Ông hơi do dự, rồi càng nắm chặt sợi dây hơn nữa.
Hôm sau, người ta thấy nhà leo núi đã chết cóng tong teng bên vách núi, mà tay vẫn nắm chặt sợi dây. Ông chỉ cách mặt đất vỏn vẹn... nửa thước !!

Dec 25, 2010

Ngôi sao Giáng Sinh

photo

      Đây là Giáng sinh đầu tiên Bà Nội vắng Ông Nội, à chúng tôi đã hứa với Ông Nội trước khi Ông Nội qua đời rằn chúng tôi sẽ tạo cho Bà lễ Giáng sinh tuyệt vời. Khi Ba Mẹ tôi, ba người em gái và tôi đến căn nhà nhỏ của Bà Nội ở núi Blue Ridge thuộc Bắc Carolina, chúng tôi thấy Bà Nội suốt đêm chờ chúng tôi đến từ Texas. Sau khi ôm nhau hạnh phúc, Donna, Karen, Kristi và tôi chạy ùa vô nhà. Căn nhà có vẻ trống vắng khi vắng bóng Ông Nội, chúng tôi biết đến lúc chúng tôi tạo lễ Giáng sinh này đặc biệt đối với Bà Nội.





       Ông luôn nói rằng cây Noel là vật trang trí quan trọng nhất. Vì vậy chúng tôi cùng trang trí cây Noel đẹp vẫn được giữ trong nhà kho của Ông Nội. Cây Noel nhìn rất đẹp. Nhiều đồ trang trí cũng được cất giữ cẩn thận với cây Noel, nhiều thứ có từ khi Ba tôi còn nhỏ. Khi mỗi người chúng tôi mở quà của mình, Bà Nội kể một câu chuyện. Mẹ tôi treo lên cây Noel những bóng đèn trắng và những dây băng đỏ, các em và tôi cẩn thận treo các vật trang trí lên cây Noel. Cuối cùng, Ông Già Noel đã làm vinh dự cho cây Noel. 


      Chúng tôi lùi ra để chiêm ngưỡng “tác phẩm” của mình. Đối với chúng tôi, nó nhìn tuyệt vời, đẹp như cây Noel ở Trung tâm Rockefeller vậy. Nhưng vẫn thiếu điều gì đó. 

Tôi hỏi: 

-         Ngôi sao của Bà Nội đâu?

Ngôi sao là vật yêu quý nhất của Bà Nội. Bà Nội vừa tìm trong các hộp vừa nói: 

-         Quái thật! Nó ở đây kia mà. Ông Nội của các con luôn gói mọi thứ cẩn thận khi dọn dẹp cây Noel mà


        Chúng tôi tìm hết các hộp cũng thấy ngôi sao đâu, mắt Bà Nội rưng rưng. Đây hẳn không là vật trang trí bình thường, ngôi sao vàng phủ đồ trang sức màu sắc và đèn xanh chớp nháy. Vả lại, Ông Nội đã tặng Bà Nội khoảng 50 năm trước, dịp lễ Giáng sinh đầu tiên sống đời phu thê. Bây giờ là lễ Giáng sinh đầu tiên không có Ông Nội, ngôi sao cũng biến mất. 

Tôi an ủi: 

-         Bà Nội đừng lo. Chúng con sẽ tìm cho Bà Nội

Mấy chị em tôi cùng tìm. Donna nói:


-         Mình tìm trong kho xem. Có thể chiếc hộp khuất đâu đó

      Nghe có vẻ hợp lý nên chúng tôi đứng lên ghế và tìm khắp nhà kho. Chúng tôi thấy cuốn sổ cũ của Ông Nội, những tấm hình chụp người thân, những tấm thiệp Giáng sinh cũ, cả những chiếc áo dạ tiệc và các hộp đựng đồ trang sức, nhưng không thấy ngôi sao. Chúng tôi tìm cả dưới gầm giường và trên các kệ, hết bên trong ra bên ngoài cũng không thấy gì. Chúng tôi mệt đừ. Bà Nội có vẻ thất vọng dù Bà Nội cố gắng không để lộ ra. 



Kristi đề nghị: 

-         Chúng ta mua một ngôi sao mới vậy

Bà Nội nói ngay: 

-         Không. Năm nay chúng ta không có ngôi sao

        Lúc này, bên ngoài trời đã tối. Đến giờ đi ngủ vì Ông Già Noel sẽ đến sớm. Chúng tôi nằm trên giường, bên ngoài tuyết rơi lặng lẽ. 



       Sáng hôm sau, các em và tôi thức dậy sớm vì đó là thói quen của chúng tôi vào ngày lễ Giáng sinh. Đầu tiên, để xem Ông Già Noel đã để gì dưới cây Noel, sau đó tìm ngôi sao Giáng sinh trên trời. Sau bữa điểm tâm truyền thống với bánh táo, cả gia đình cùng mở quà. Ông Già Noel đã đem đến cho tôi món quà mà tôi thích là Lò Nướng Bánh, còn Donna được Búp-bê. Karen vui mừng vì được chiếc xe độc mã, còn Kristi được bộ tách trà bằng sứ. Ba tôi có nhiệm vụ phát quà để mọi người đều có quà cùng mở ra. 


   Ba nói với giọng rất lạ: 

-         Món quà cuối cùng dành cho Bà là của Ông

Bà Nội ngạc nhiên: 

-         Của ai?

Mẹ tôi giải thích: 

-Con thấy món quà đó ở trong nhà kho khi chúng con lấy cây Noel xuống. Nó được gói kỹ và con đặt nó dưới cây Noel. Con nghĩ đó là quà của Mẹ.

Karen hối: “Mau mở ra đi!”

        Tay Bà Nội run run mở quà. Mặt Bà Nội tươi hẳn khi mở lớp giấy và lấy ra một ngôi sao vàng chói. Có giấy ghi chú bên dưới. Giọng run run khi Bà Nội đọc cho cả nhà nghe:
Đừng giận tôi, Bà xã nhé! Tôi làm bể ngôi sao của Bà khi dọn dẹp đồ trang trí, và tôi không dám cho Bà biết. Dù đó là lúc mua ngôi sao mới tôi vẫn hy vọng nó mang lại cho Bà nhiều niềm vui như ngôi sao đầu tiên. Chúc mừng Giáng sinh Bà xã.
Yêu Bà nhiều,
Bryant

      Thế nên cây Noel của Bà Nội có một ngôi sao, ngôi sao này diễn tả tình yêu của Ông Bà Nội tôi dành cho nhau. Điều đó đã mang lại cho Ông Nội tôi một nơi dành cho lễ Giáng sinh trong mỗi trái tim chúng tôi và làm thành lễ Giáng sinh tuyệt vời nhất chưa từng có!
(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Dec 24, 2010

Đêm nay Chúa ra đời

photo

Ông Thợ Giầy Và Những Người Khách ngày Lễ Giáng Sinh


Cách đây hàng trăm năm,có một người thợ giầy cư ngụ tại thành phố Marseillies,được tất cả những dân chúng sống trong vùng đó yêu mến và kính trọng đến nỗi gọi ông là “Bố Martin.”


Vào một ngày trước Lễ Giáng-Sinh, ông ngồi một mình trong cửa tiệm bé nhỏ của mình, đọc câu chuyện về những nhà thông thái đến viếng thăm hài nhi Giêsu, với những tặng vật mà họ đã mang theo. Và ông tự nhủ với mình: "Nếu ngày mai là ngày Lễ Giáng-Sinh , và nếu hài nhi Giêsu được sinh ra tại thành phố Marseilles đêm nay, mình biết, mình sẽ dâng lên Ngài món quà gì ?

Ông đứng lên, với tay lấy từ trên kệ một đôi giầy mềm mại bằng da trắng nhỏ xíu, với khuy cài bằng bạc sáng ngời. “Mình sẽ tặng Ngài đôi giầy bé nhỏ dễ thương, một đôi giầy mà mình làm đẹp nhất trong đời mình. Ôi! Chắc là mẹ ngài sẽ hài lòng lắm! Nhưng mình chỉ là lão già lẩm cẩm”  . Ông nghĩ thế và mỉm cười  "Vua Vũ Trụ cần gì món quà nghèo nàn của mình chứ.”


Đặt đôi giầy trở lại trên kệ, ông thổi tắt ngọn nến và chuẩn bị nghỉ ngơi. Vừa chợp mắt, thì ông nghe có tiếng gọi: "Martin".  Tự trong thâm tâm, bằng trực giác, ông cảm thấy, ông nhận ra người đang nói với ông: "Martin, từ lâu con mong ước được gặp ta. Ngày mai ta sẽ đi ngang qua cửa tiệm của con.  Nếu con thấy ta và mời ta vào, thì ta sẽ là khách của con và sẽ dùng bữa trên bàn của con.



Vui mừng quá thể, ông không thể ngủ được đêm hôm ấy.  Ông đã chỗi dậy trước khi trời rạng sáng và dọn dẹp gọn ghẽ lại cửa tiệm bé nhỏ của mình. Lấy những nắm cát sạch tinh, rải rộng trên lối đi, ông cắt những cành linh-sam xanh tốt, đan bện với nhau thành những vòng hoa treo dọc theo mái hiên. Trên bàn ăn, ông đặt một ổ bánh mì thật lớn, một hũ mật ong, một bình đầy sữa, và phía trên lò sưởi ông treo một ấm trà nóng.  Ông nhìn quanh hài lòng với sự chuẩn bị của mình.


Mọi sự đã sẵn sàng, ông đứng nhìn chăm chăm ra bên ngoài cửa sổ mong đợi. Ông tin rằng, ông sẽ nhận ra Vua Vũ Trụ, khi Ngài xuất hiện.  Ngoài đường vắng vẻ, chỉ thấy những hạt mưa tuyết đang rơi, nhưng trong lòng ông thật vui sướng, khi chợt nghĩ, ông chứ không phải ai hết, sẽ được ngồi cùng bàn và bẻ bánh dùng bữa với vị khách quý!


Ngay lúc đó, ông nhìn thấy một ông lão quét đường đi ngang qua, lâu lâu dừng lại, thổi hơi vào đôi bàn tay gầy guộc để làm ấm lại.  Ông Martin nghĩ thầm: "Tội nghiệp, lạnh cứng người, chứ chơi sao !”. Mở cửa, ông gọi to:

- Bạn ơi, vào đây, sưởi cho ấm chút và uống tí trà nóng nào.
Không chờ gọi lần thứ hai, ông lão quét đường đáp lời cám ơn và bước vội vào tiệm.

Một giờ trôi qua, ông Martin nhìn ra, thấy một phụ nữ trong bộ quần áo nghèo nàn mỏng manh, bế một đứa bé.Bà ta có vẻ mệt mỏi, dừng lại, tạt vào trú mưa ở hàng hiên trước tiệm ông. Vội vàng, ông mở tung cửa. Và nói với bà ta:

- Vào đây, sưởi ấm nghỉ ngơi tí . Rồi ông hỏi: "Bà bệnh à ?”.

Bà rời rạc cắt nghĩa:

- Tôi đang đi đến nhà thương, mong họ sẽ cho tôi và cháu vào. Chồng tôi đi làm xa. Tôi bị bệnh, nhưng không có thân nhân nào để nhờ vả cả !

Bố Martin nhìn thằng bé, Ông kêu lên:

- Tội nghiệp thằng bé ! Sưởi cho ấm, rồi ăn miếng bánh đi. Được rồi, để tôi cho thằng bé uống chút sữa. Trời ơi, thằng nhỏ đẹp trai quá cở.  Ố…ồ…sao chân nó không mang giầy vậy? .

Bà mẹ thở dài:

- Dạ, tôi không có tiền mua giầy cho cháu.

Ông đề nghị: "

- Vậy thì tôi cho nó đôi giầy này.

Và rồi, ông Martin lấy đôi giầy bé nhỏ bằng da trắng, mà ông đã ngắm nghía từ buổi chiều hôm trước, xỏ vào đôi chân nhỏ xíu của em bé. Vừa khít.


Lúc sau, bà mẹ trẻ hết lời cám ơn và xin phép được rời đi. Ông Martin lại trở về vị trí mà ông ngóng đợi Vua Vũ Trụ từ sáng đến giờ.


Nhiều giờ trôi qua, có nhiều người đã được mời ghé vào, để chia sẻ tình thương đơn sơ của ông thợ giầy, nhưng vị khách ông mong đợi đã không xuất hiện.


Sau cùng, khi màn đêm rơi xuống, "Bố Martin" nằm nghỉ trên giường, với cõi lòng buồn bã, ông thở dài: "Chắc chỉ là một giấc mơ thôi. Tôi đã hy vọng và tin tưởng, nhưng Ngài đã không đến ! "



Đột nhiên, căn phòng ngập tràn ánh sáng chói chang, làm ông phải nhấp nháy đôi mắt nhiều lần, và trước đôi mắt kinh ngạc của ông thợ giầy, lần lượt xuất hiện từng người một: ông lão quét đường, bà mẹ bị bệnh và em bé, cùng với tất cả những người, mà ông đã chia sẽ các món ăn uống ngày hôm nay. Mỗi người đều mỉm cười và nói với ông: "Con không thấy ta sao? Ta không ăn uống ở bàn của con sao ? ", nói xong và biến mất.

Và trong bóng đêm thinh lặng, ông nghe một giọng nói hiền từ và những lời quen thuộc: Ai tiếp đón một em bé vì danh Ta, là tiếp đón chính Ta....”

Dec 22, 2010

La Vang Holly land with Mom, Sister and Nephew (18-20 Dec 2010)

   Lần thứ 6 đi La Vang, với mẹ, chị Hai và bé Ben Quậy

   Lời khấn xin vừa rời khỏi La Vang đã được ứng nghiệm. Tan vỡ một mối duyên, dẫu đau lòng, nhưng thôi, cuộc đời này vẫn còn nhiều người tốt, rồi ta sẽ gặp.

photo
photo
photo
photo
photo
photo
photoPhút suy tư...

photo
photo
photo
photo
photo
photo
 tha thẩn...

photo
photo
photo
photo
Bé trai nào thấy ngựa cũng thích, để làm siêu nhân ...

photo
 Cô nào thấy "giai" cũng thích

photo
  Giá mà ông ta đừng hóa đá ...

photo
photo
photo

Dec 18, 2010

Bí thư Tỉnh ủy

photo
        

     Bố mẹ tôi rất thích bộ phim “Bí Thư Tỉnh Ủy” đang chiếu mỗi tối thứ hai, tư, sáu trên VTV1. Bố mẹ bảo: phim như đời thật. Mỗi tối sau giờ cơm, hoặc vừa ăn cơm tối vừa xem, bố mẹ hay chuyện trò bàn luận : “Ấy, đúng là cái thời ấy nó như thế thật, muốn đi chợ bán gánh khoai mì cũng phải chốn chui chốn nhủi. Ông Chủ Tịch xã này giống hệt cái tay Chủ Tịch xã mình thời ấy nhỉ…”. Thế là có bao nhiêu là chuyện để bố mẹ kể hoài không hết…


      Tôi cũng thích bộ phim này, tuy xem phim có hơi bị nhức đầu vì những lời lẽ trao đổi của các nhân vật trong phim, bàn về chính sách với nghị quyết, nghị định của Trung Ương và Chế độ XHCN bảo thủ thời ấy, nhưng tôi thích phong cảnh rất bình dị êm đềm của nông thôn miền Bắc và cái cách các diễn viên thể hiện tính cách và lối sống rất thật của người nông dân miền Bắc. Tôi đã từng về quê Cha mẹ một lần, tuy thời gian lưu lại rất ngắn ngủi thôi, nhưng bao nhiêu ấn tượng đẹp và dư âm của cảm giác yên bình ngọt ngào ấy vẫn lẩn quẩn trong tôi mà thỉnh thoảng lại thức dậy trong tôi nỗi nhớ da diết như người xa quê lâu năm chưa về “Thiếu quê hương ta về đâu?...”


      "Bí thư tỉnh ủy" kể lại câu chuyện khoán hộ, khoán chui ở tỉnh Vĩnh Phúc dựa theo nguyên mẫu cố bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc.


      Có lẽ tôi sẽ không bao giờ biết Bí Thư Tỉnh Ủy Kim Ngọc là ai nếu tôi không xem bộ phim “Bí thư Tỉnh Ủy”. Kim Ngọc - một con người chỉ học hành hết lớp 7, vậy mà tư duy đã thật sự đi rất xa so với thời gian, chính ông mới dám đưa ra những cái mới đi ngược lại hẳn nguyên lý của Chủ Nghĩa Xã Hội lỗi thời bảo thủ lúc đó, tháo bỏ sự ràng buộc kìm hãm của cơ chế quản lý lạc hậu và những điều ông đã làm đến giờ vẫn đúng. Trên tất cả các cánh đồng hiện nay đều áp dụng cách khoán mà hơn 50 năm trước ông Ngọc đã từng áp dụng và đã bị lãnh đạo bắt làm kiểm điểm.


      Ngay từ hồi những năm 60, khi mà sự giáo điều trong nhận thức lúc đó còn hết sức nặng nề về “ăn ngon, mặc đẹp, ở sang” – được xem là đồng nghĩa với sự sùng bái vật chất tư bản chủ nghĩa, nhưng ông Kim Ngọc đã phát biểu trong Đảng bộ tỉnh khẳng định một chân lý có thể nói là cực kỳ táo bạo về sự phấn đấu của người Đảng viên là làm sao để “dân luôn được ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, học hành chữa bệnh không mất tiền, đó mới là mục tiêu của CNXH. Vì sao Hợp Tác Xã luôn được coi là điển hình tiên tiến của XHCN vậy mà dân vẫn đói nghèo, chẳng ai thiết tha với đồng ruộng. Trong khi ta luôn tuyên truyền về sự phát triển của ruộng hợp tác, với năm nào cũng mùa màng bội thu. Hình thức khoán việc ấy đẻ ra biết bao thứ quan lieu, nạn cường hào mới, tệ rong công, phóng điểm, làm ăn gian dối. Vậy mà người ta cứ thổi phồng lên là Hợp Tác xã no ấm, người dân phấn khởi. Quả là giáo điều. Làm ăn như thế đói là phải !!”


     Cuối cùng ông đưa ra kết luận: “ Áp dụng mô hình hợp tác “mọi thứ đều là của chung” là rất sai. Xã viên không coi ruộng đất là của mình nên họ chẳng thiết tha gì với đồng ruộng. Phải để nông dân làm chủ mảnh đất của mình”.


    Tư tưởng “Cha chung không ai khóc, của chung không ai giữ” xem ra thì thời nào cũng thế. Cái gì không phải là thuộc sở hữu của ta, ta không có nghĩa vụ và không có quyền lợi trong sự phát triển hay suy sụp của nó thì ta không có lý do để cố gắng. Đó là điều mà Bí Thư Kim Ngọc đã nhìn ra, không phải vào thời đại ngày nay, mà là từ 50 năm trước. 


     “Bí thư Tỉnh ủy” là một minh họa sống động cho những điều mà mẹ tôi đã từng kể với tôi lúc trước mà lúc ấy tôi vẫn còn mập mờ chưa hiểu, về cái gọi là “ngăn sông cấm chợ”: muốn đi bán hay đi mua khúc vải cũng lấm la lấm lét như kẻ đi ăn cắp, phải đi vào lúc đêm hôm mưa bão để tránh bị dân quân họ chặn bắt, cả năm mới được vài ba mét vải được phát chứ đâu như tôi mua quần mua áo suốt năm (như những khi mẹ thấy tôi mua đồ nhiều quá lại tiếc tiền mà rầy la thế ), chủ trương "diệt giặc dốt" được thực thi hóa bằng cách dựng các trạm kiểm soát ở đầu làng, người làng đi chợ, đến chốt bị chặn lại, họ giơ cái bảng có viết mấy chữ lên, ai không đọc được thì phải quay về…. Cái bụng chưa no thì làm sao cái đầu nó nạp con chữ được ?!




      Lớp trẻ tuổi sinh sau, lại sinh ra trong miền Nam như tôi có lẽ không thể nào yêu thích và hiểu hết về nội dung phim cũng như ý nghĩa mà bộ phim muốn gửi gắm, thậm chí nhiều người còn cảm thấy nhức đầu và nhàm chán với quẩn quanh phong cảnh phim toàn là nông thôn với đồng ruộng, những ông Bắc đi lại chuyện trò những vấn đề cũ rích, nhân vật trong phim thì chẳng có ai xinh xắn xì tin và ăn mặc hợp thời trang kiểu Hàn Quốc. Nhưng những người đã từng sống ở miền Bắc và nhất là đã từng sống dưới thời khó khăn của đường lối mới cảm nhận và thấu hiểu được. Bộ phim như một tiếng nói đồng cảm với những người đương thời mà ngày ấy họ đã không tìm được tiếng nói đồng cảm từ lãnh đạo, lầm lũi trong đời sống mà họ làm việc không vì lợi ích tập thể mà cũng chẳng thể nào vì lợi ích cá nhân. Thời ấy không phải Bí Thư Tỉnh Ủy nào cũng có tư duy cải cách dám nghĩ dám làm, đặt lợi ích nông dân lên trên quyền lợi bản thân như Bí Thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc – ông Kim Ngọc. 

Nov 30, 2010

Bất Hiếu

photo



        Đời vua Minh Mạng, có hai cha con kia nhà ở gần nhau. Cha thì nghèo mà con thì rất giầu. Đêm khuya nọ, cha lén sang nhà con xúc trộm gạo.


        Con thức giấc tưởng là kẻ trộm, vội vác gậy đánh vào lưng, chẳng may cha lăn ra chết. Toà án xã huyện đều xử là “ngộ sát”, sau đó hồ sơ đựợc gởi về kinh đô Huế. Vua Minh mạng mở hồ sơ ra, ngài thức cả đêm đọc đi đọc lại vụ án, và cuối cùng vua quyết định cho xử lại và truyền lệnh xử tử người con. Vua Minh mạng phân tích rằng: “Không phải chỉ xét việc giết người, mà phải xét việc ăn trộm. Tại sao người cha phải đi ăn trộm? Lại là ăn trộm của con? Một người con giầu có mà để cha mình đói khổ, đến nỗi đêm hôm phải sang nhà con ăn trộm gạo, thế thì người con đó là gì? Có đáng là con không?


        Tội con bất hiếu như thế là thật đáng phải chết. Trước khi đã giết lầm cha bằng gậy, thì đứa con đã để cha nhục nhã và chết đói rồi!

[Sưu tầm]

       Phải nhận rằng, luật về báo hiếu, phụng dưỡng cha mẹ ngày nay mỗi dễ dãi dần so với trước, cùng với khuynh hướng quy về chính mình, dù luật đời vẫn còn, luật đạo càng không thể bỏ. 

       Phải nhận rằng, con người nói chung, con cái nói riêng, ngày nay văn minh lịch sự, kiến thức nâng cao, phương tiện hiện đại hơn, nhưng về mặt đạo đức, đạo hiếu, đạo nghĩa thì lại không quan tâm đúng mức, lại coi đó là những nhu cầu giống mọi nhu cầu khác trong cuộc sống. Nghĩa là có cũng được, không có cũng chẳng sao.

       Vì thế, ngày càng có nhiều hoàn cảnh éo le và bi ai hơn cho các bậc sinh thành dưỡng dục là ông bà, cha mẹ, dầu con cái vẫn còn, và kinh tế của chúng không quá nghèo đến nỗi không thể lo cho mẹ cha được.

       Có nhiều người tìm cách đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão để cho đỡ phiền hà, nhờ vậy có nhiều thời gian để lo việc riêng, để đi nghỉ, đi du lịch.

       Có nhiều người môi miệng ngon ngọt, nhưng lại tìm cách đẩy cho anh em, người khác nhận nuôi cha mẹ, còn mình thì đứng ngoài cuộc.

       Có nhiều tìm bỏ tiền ra mướn người khác lo cho cha mẹ, thay vì chính mình phải làm.

      Có nhiều người để cho cha mẹ sống cùng, nhưng lại coi cha mẹ như con cái, như người làm, như người ở, nghĩa là muốn ăn thì phải làm.

      Có nhiều người còn hành hạ cha mẹ như người ở, như tù nhân, không cho cha mẹ bất cứ một quyền lợi gì trong gia đình, dù vẫn phải làm lụng vất vả như mọi người trong nhà.

      Có nhiều người tiền bạc chẳng thiếu, vậy mà chẳng giúp đỡ anh em đã đành, ngay cả cha mẹ cũng không giúp đỡ, để các ngài phải quá vất vả lo cơm ăn áo mặc, phải đi ăn đong từng ngày.

      Có nhiều người dùng tiền để tiếp tế cho cha mẹ, rồi coi đó là đã làm xong bổn phận của mình đối với các ngài.

      Có nhiều người coi tiền bạc vật chất và những việc làm cho bố mẹ là việc bác ái, nên cha mẹ phải tỏ lòng biết ơn, còn không thì chẳng hài lòng.

      Có nhiều người khinh thường bố mẹ ra mặt, nặng lời, chửi bới xỏ xiên, chì chiết. Như trường hợp nọ: vợ chồng con cái ăn cơm nóng ở nhà trên, còn cho mẹ già ở nhà ngang, ăn một tô cơm nguội, thức ăn là lựa con cá nào ngon trong đống cá khô mua nấu cho heo, rồi rửa sạch, kho cho mẹ ăn. Lúc mẹ chết thì lại khóc thật to, đám thật lớn, và có đủ trống kèn ầm ĩ. Đúng là : 

Lúc sống thì chẳng cho ăn
Đến khi nhắm mắt làm văn tế ruồi

       Thực tế càng nhìn càng suy thì càng đau lòng cho nhiều bố mẹ khi phải rơi vào những tình cảnh khó nói, hoặc không nói được. Bởi các đã ngài tự nguyện ban hết sức khỏe, thời gian, tiền bạc, hy sinh, tình yêu cho con, nên giờ chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt.

        Nếu luật pháp nghiêm minh thì chắc số cha mẹ bị con cái bỏ rơi, coi thường hay lơ là sẽ ít lại.

        Nếu mỗi người con nhờ học cao hiểu rộng mà hết lòng yêu thương phụng dưỡng cha mẹ, thì các ngài bớt buồn tủi và nhục nhã khi sức đã tàn, đời đã khép.

Ta hãy tâm niệm những câu sau:

Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Ta có thể mua được nhiều thứ, nhưng không thể mua được cha mẹ.

        Đừng để hối tiếc khi các ngài qua đi trong đau buồn rồi ta phải hối hận, giá mà, biết vậy, nếu còn sống thì thì…

Nov 29, 2010

Bà Lão và 5 đồng tiền vàng

photo


        Ngày xưa ở một làng quê hẻo lánh nọ có một bà lão. Bà ta không có ai thân thích và rất là nghèo. Mặc dù vậy bà ta là một người rất sùng đạo. Mỗi buổi tối, người ta thường thấy bóng của bà qua ngọn đèn dầu, quỳ tụng kinh trước một trang bàn thờ nhỏ.
Tiếng bà tụng kinh êm êm hòa với tiếng mõ vang đều đi khắp xóm. Khi gà gáy canh một thì lời tụng hồi hướng công đức của bà cũng đã vang sâu vào trong tâm tưởng của những người dân làng. Cho đến một đêm nọ, khác hơn mọi đêm, căn nhà nhỏ của bà lão tối om chẳng chút ánh sáng nào. Im lặng bao trùm cả xóm. Những người láng giềng lấy làm lạ và trở nên lo âu.
  


      Chẳng chờ đợi được nữa, họ rủ nhau đến nhà bà lão để hỏi thăm. Một người gõ cửa và hỏi: “Thưa cụ, mọi việc đều như thường cả chứ?” Bà lão trả lời: “cám ơn các cô chú, tôi không sao”.
  


       Những người láng giềng nghe thế cũng lấy làm an tâm và trở về nhà, mặc dù họ chẳng hiểu lý do gì mà bà lão không còn tụng kinh như thường lệ!
  


       Thế rồi bốn năm đêm liên tiếp trôi qua, vẫn không nghe tiếng bà lão tụng kinh trở lại. Căn nhà nhỏ của bà vắng đi ánh sáng leo loét của ngọn đèn dầu. Những người láng giềng không còn chịu đựng nổi sự thắc mắc, lại rủ nhau đến nhà bà lão.
  


       Một người hỏi: “Thưa cụ, chúng con đã quá quen với tiếng gõ mõ tụng kinh của cụ mỗi đêm. Bây giờ mất đi tụi con đâm ra thấy nhớ, như thiếu thốn một cái gì. Xin cụ cho biết vì cớ gì mà cụ lại chẳng còn tụng kinh như xưa nữa?”
  


       Bà lão thở dài đáp: “Này các cháu ơi, cả đời của ta, ta để dành dụm được năm đồng tiền vàng. Nhưng mấy ngày trước đây, trong lúc ta vắng nhà, có tên trộm vô tâm nào đã vào lấy cắp mất cả. Ta buồn rầu vì tiếc của quá nên chẳng còn lòng dạ nào mà tụng niệm gì nữa hết!”
  


       Những người dân làng nghe thấy động lòng, vội vàng rủ nhau đi gom góp tiền bạc. Chẳng phút chốc là đã có đủ năm đồng vàng để đến đưa cho bà lão.
  


       Tối hôm sau, dân làng âm thầm rủ nhau đến tụ họp trước nhà bà lão để nghe tụng kinh. Nhưng thất vọng thay, đêm khuya dần mà vẫn không thấy bà lão đốt đèn tụng kinh.
  


       Cho đến khi gà gáy canh một thì họ vội gõ cửa và hỏi: “Này cụ, bây giờ cụ đã có đủ năm đồng tiền vàng rồi, vì cớ gì mà cụ vẫn chưa tụng kinh”!
  


       Bà lão thở dài não nuột và nói: “Này các cháu ơi, nhờ lòng thương của mọi người mà ta đã có lại năm đồng vàng. Nhưng ta vẫn chẳng còn lòng dạ nào mà tụng niệm. Đầu óc ta cứ nghĩ hoài, phải chi đừng có tên trộm tham lam ấy thì bây giờ ta đã có tới mười đồng vàng rồi!”
 

[Gs. Duy Nhiên]

       Ta không nói đến lòng tham của con người, nhưng ta phải nhìn nhận về sự ảnh hưởng lớn lao và chi phối không nhỏ của tiền bạc vật chất đến cuộc sống thường ngày. Nó có thể làm cho ta vui mừng hân hoan và vui sướng hạnh phúc, hoặc nó cũng có thể làm cho ta đau khổ, thất vọng, chán nản, tự tử.
  


       Có nhiều vật chất cũng sướng. Có nhiều tiền bạc cũng thích thật.
  


       Những người nghèo phải lam lũ vất vả để kiếm cơm áo hàng ngày, thì người khá giả chẳng cần bận tâm về cơm ăn áo mặc.
Những người nghèo phải lo cơm ăn áo mặc thì làm gì có nhiều thứ phương tiện vật chất để học hành, giải trí, vui chơi, thư giãn, còn người khá giả thì có.


 

       Những người nghèo khó vật chất thì thiếu thốn mọi thứ mọi bề, mọi phương tiện để phục vụ cuộc sống hàng ngày. Từ lương thực thể xác đến nhu cầu tinh thần, từ văn hóa giáo dục đến du lịch nghệ thuật, từ âm nhạc hội họa đến thơ ca văn học… Đang khi người giàu có thì quá bình thường đối với họ.
  


       Những người nghèo thường chịu nhiều thiệt thòi về nhiều mặt, còn người giàu có lại thuận lợi hơn vì có đủ điều kiện để phục vụ cuộc sống.
  


        Những người nghèo dường như bị coi thường tiếng nói, ít được tin tưởng, có thể còn bị đối xử không công bằng. Còn người giàu thì dễ có thế, dễ có sức mạnh, bạo ăn bạo nói, hàn hđộng một cách mạnh dạn, tự tin.
  


       Tiền giúp con người giải quyết được rất nhiều vấn đề trong cuộc sống. Tiền làm vui thích lòng người, bất kể là ai, dù tu hay không tu, dù là dân thường hay bậc quyền quý.
  


        Con người sinh ra đến khi lìa đời, chẳng mấy người lại không gắn bó với tiền bạc vật chất, chẳng mấy người ít nhiều đã bị tiền bạc chi phối.
  


        Tiền bạc chẳng có tội tình gì. Xấu hay tốt do người dùng nó mà ra.
Nếu sử dụng vào mục đích xấu thì nó có thêm sức mạnh để làm hại, phá đổ và hủy diệt cho mình và cho người người, cho tự nhiên cũng như siêu nhiên.
  


         Nếu sử dụng vào mục đích tốt, thì nó cũng tạo được sức mạnh của xây dựng và kiến tạo cho cả tinh thần lẫn vật chất, cả đời này lẫn đời sau.
  


        Điều quan trọng là ai sẽ bị lệ thuộc, bị lôi cuốn, bị điều khiển bởi tiền bạc, và ai là người giữ được tâm hồn và cuộc đời thanh thoát, nhẹ nhõm vì không bị chi phối bởi vật chất.
  


        Ma quỷ thật tinh vi khi nhìn thấy nhu cầu quá mạnh của con người về tiền bạc vật chất, cùng với lòng ham muốn, thích gắn bó với nó. Vì thế, chúng đã bày ra nhiều dịp để cám dỗ, lôi kéo con người sử dụng sai mục đích, gây hại cho thế giới.
  


        Chúa Giêsu xưa kia phải chịu ba cơn cám dỗ thế nào, thì ngày nay, những cách này vẫn còn tác dụng, chẳng lỗi thời chút nào, ngược lại còn rất hiệu quả nữa. Nhất là khi thế giới đang ngày càng đặt nặng vào nhu cầu vật chất và hưởng thụ, coi vật chất là tiêu chuẩn để đánh giá sự thành đạt của con người, coi vật chất là khuôn mẫu để so sánh với các giá trị tinh thần, tình yêu, lòng thương xót, thứ tha, cùng nhân cách và đạo đức của con người. Đáng sợ hơn là còn dùng vật chất để quy đổi, mua bán các giá trị của lương tâm, nghĩa tình nữa. 

Nov 22, 2010

Community Involvement Project at Ben Tre - 12 & 14 Nov (2nd)

photoWelcome signboard
photo
Group 1: teaching English via picture books

photo
Group 2 (my group) : teaching English via a song "Old Macdonal have a farm  ee..ii..ee...ii...oo"
photo
Group 3 (boys): exchange sport game
 
photo

photo

photo
Group 4: repair old bookshelf and build some new bookshelf for library.

photo
Happy to make good job for poor school

photo
set - up library and give books

photo
Group 5: teaching new games from Singapore

photo
give school some new computers
photo
Arrange donation gifts.
photo
Give donation gifts

photo
photo
photo
happy face of local children

photo
farewell ...

photo
Big goodbye
photo


photo
Happy faces

photo
Learning trip - Mekong Delta after Community Involvement project

photo
photo
Toan - Wendy